BỒ-TÁT QUẢNG ĐỨC (1897-1963): VỊ THÁNH TĂNG CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI
bo tat thich
BỒ-TÁT QUẢNG ĐỨC (1897-1963):
VỊ
THÁNH TĂNG CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI
(Kỷ
niệm 60 năm mùa Pháp nạn 1963-2023)
PGS.TS.
Nguyễn Công Lý*
Bồ-tát Thích Quảng Đức (1897-1963) là một vị Thánh tăng
của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại. Thế danh của ngài là Lâm Văn Tức (có tài
liệu ghi là Lâm Văn Tuất), sinh năm Đinh Dậu (1897) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa, trong một gia đình mộ Phật, có 7 anh chị em, thân phụ là Lâm Hữu
Ứng và thân mẫu là Nguyễn Thị Nương.
Năm lên bảy tuổi, ngài xuất gia tu học với Hòa thượng Như Đạt Minh Lý, tự Hoằng Thâm, thuộc dòng
Thiền Chúc Thánh. Hòa thượng vừa là bổn sư truyền giới, vừa là cậu ruột, nhận ngài
làm con nuôi và chính thức đổi tên là Nguyễn Văn Khiết, pháp danh là Thị Thủy.
Sau 8 năm tu tập, lúc mười lăm tuổi (1911), ngài được
Hòa thượng bổn sư cho thọ giới Sa-di, đặt pháp tự là Hạnh Pháp. Năm hai mươi
tuổi (1916), ngài thọ giới Tỷ-kheo, pháp hiệu là Quảng Đức. Sau khi thọ đại giới, ngài phát nguyện nhập thất tu ba
năm tại thảo am trên ngọn núi mang tên Hòn Đất thuộc thôn Thuận Mỹ, xã Ninh
Quang, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Về sau, ngài đã trở lại nơi này và cho
xây dựng trên núi một ngôi chùa đặt tên là Thiên Lộc tự.
Từ đó, ngài bắt đầu hoằng dương Chánh pháp, hoá độ
chúng sinh.
Ngài một mình vân du hóa đạo theo hạnh đầu đà với
chiếc bình bát. Hai năm mãn nguyện, ngài lại trở về Ninh Hòa nhập thất tại chùa
Sắc tứ Thiên Ân, một ngôi cổ tự được xây dựng từ đầu triều vua Minh Mệnh
(1820-1840), ở thôn Phước Thiện, xã Ninh Đông, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, Đại lão Hòa
thượng Hải Đức đến nơi ngài đang nhập thất thăm hỏi, mời ngài nhận chức Chứng
minh Đạo sư cho Chi hội Phật học Ninh Hòa. Ba năm sau, ngài được thỉnh cử giữ
chức Kiểm Tăng cho Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa.
Trong thời gian hành đạo tại miền Trung, Ngài đã kiến
tạo và trùng tu tất cả 14 ngôi chùa. Những ngôi chùa do ngài là Tổ khai sơn như
chùa Thiên Lộc (Thuận Mỹ, Ninh Quang, Ninh Hòa), chùa Chi hội Phật giáo Ninh
Hòa (nay là chùa Đức Hòa, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa), v.v.
Sau nhiều năm vân du ở miền Trung, năm 1943 ngài vào Nam để giáo hóa. Ngài hành đạo khắp các tỉnh
thành: Sài Gòn - Gia Định, Định Tường, Tây Ninh, Bà Rịa, Hà Tiên...
Ngài cũng đã từng sang Nam Vang (Phnôm-Pênh,
Campuchia) và Lào khoảng ba năm, vừa giáo hóa các Phật tử kiều bào, vừa nghiên
cứu kinh điển Pāli và Phật giáo Nam tông (Theravāda). Những bài thi kệ được ngài
viết để dặn dò các đệ tử đã cho biết bước chân ngài từng vân du khắp nơi.
Lúc mới vào Nam, ngài đã lưu trú tại chùa Long Vĩnh ở
quận 3, Sài Gòn trong một thời gian dài, nên dân chúng quen gọi ngài là Hòa
thượng Long Vĩnh. Dù bất cứ ở đâu và lúc nào, ngài bao giờ cũng luôn dốc lòng
làm tròn nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai, kế tục chư Tổ sư trao truyền giáo
hạnh, chăm lo tô bồi công đức, hoằng dương Chánh pháp, cứu độ quần sinh.
Năm 1953, ngài được thỉnh cử vào chức vụ Phó Trị sự và
Trưởng ban Nghi lễ Giáo hội Tăng-già Nam Việt, kiêm nhiệm vụ trụ trì chùa Phước
Hòa ở Bàn Cờ, ngôi chùa này là nơi đặt trụ sở đầu tiên của Hội Phật học Nam
Việt.
Năm 1958, khi trụ sở của Hội dời về chùa Xá Lợi, Ngài
nhận thấy tuổi đã cao và với bổn nguyện “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, nên đã
xin thôi mọi chức vụ để có đủ thì giờ an tâm tu niệm. Thời gian này, ngài tiếp
tục vân du hành đạo ở nhiều nơi. Với tâm từ bi vô ngã vị tha, ngài dùng mọi
phương tiện thích ứng để hướng dẫn thế nhân mê mờ quay về với chánh đạo.
Khoảng những năm 1960 - 1962, ngài thường đi và về
giữa Khánh Hòa và Gia Định, khi thì ngài về lại quê hương Khánh Hòa hành đạo,
trụ trì chùa Long Phước, thôn Thạch Thành, xã Ninh Quang, huyện Ninh Hòa, tỉnh
Khánh Hòa; lúc thì ngài về Gia Định trụ trì chùa Quan Thế Âm ở Phú Nhuận.
Năm 1963, phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam
đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo diễn ra khắp các tỉnh thành: Huế,
Quảng Trị, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Sài Gòn, Gia Định…, ngài tích cực
tham gia. Chính sách kỳ thị tôn giáo và đàn áp Phật tử của Ngô Đình Diệm ngày
một nặng nề và khốc liệt. Máu Phật tử đã đổ ở Đài Phát thanh Huế vào đêm
8-5-1963. Nhiều cơ sở già lam, tự viện ở các vùng miền bị phong tỏa, nhiều Phật
tử bị chính quyền họ Ngô bắt bớ, khảo tra. Để thức tỉnh Tổng thống Ngô Đình
Diệm và những quan chức dưới quyền họ Ngô sớm đáp ứng năm nguyện vọng tối thiểu
của Phật giáo đồ, đồng thời để cho thế giới nhận thấy cuộc đấu tranh đòi tự do
tín ngưỡng, đòi bình đẳng tôn giáo của Phật tử Việt Nam là chính đáng, ngài đã
quyết định thực hiện tâm nguyện của mình là được thiêu đốt nhục thân để cúng
dường chư Phật và bảo vệ Đạo pháp, bởi ngài nhận ra rằng thân ngũ uẩn này chỉ
là giả tạm, chỉ có Chánh pháp mới là trường tồn, bất diệt. Đơn xin tự thiêu của
ngài được viết tại chùa Long Phước, thôn Thạch Thành, xã Ninh Quang, huyện Ninh
Hòa, tỉnh Khánh Hòa, có chữ ký và đóng dấu xác nhận nơi cư trú của ngài do ông
Trần Cầu là Chánh đại diện xã Ninh Quang, huyện Ninh Hòa lúc bấy giờ ký xác
nhận.
Ngày 20 tháng 4 nhuần năm Quý Mão, tức ngày 11 tháng 6
năm 1963, cuộc diễu hành rước di ảnh các Thánh tử đạo của trên 800 vị Hòa
thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni và Phật tử từ chùa Phật Bửu đến chùa Xá
Lợi, khi đoàn diễu hành tiến đến ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt
(nay là đường Nguyễn Đình Chiểu và Cách mạng Tháng Tám, Quận 3, TP. Hồ Chí
Minh), ngài từ trên xe hơi bước xuống, tự tẩm xăng thấm ướt mấy lớp cà-sa, ngồi
kiết già trên mặt đường, tự châm lửa giữa hàng mấy trăm Tăng Ni đang vây quanh
chắp tay cầu nguyện, trước sự chứng kiến của nhiều quan sát viên, các nhà báo
quốc tế và trong nước. Ngọn lửa bốc cao, phủ kín thân mình, ngài vẫn an nhiên
chắp tay tĩnh tọa. Gần 15 phút sau, lửa tàn và ngài ngã xuống, tay vẫn còn
quyết ấn tam muội.
Nhục thân của ngài được Giáo hội Phật giáo rước về
quàn tại chùa Xá Lợi hơn một tuần lễ. Đến ngày 20 tháng 6 năm 1963, Ủy ban Liên
phái Bảo vệ Phật giáo cùng tất cả chư Tăng Ni và Phật tử tổ chức lễ rước đưa kim
quan về An dưỡng địa Phú Lâm, cử hành trọng thể lễ trà tỳ.
Sau khi hỏa thiêu suốt ngày, trong lò thiêu đến 4.000
độ xương thịt cháy tiêu hết, duy chỉ có trái tim của ngài vẫn còn nguyên, được
thiêu lần thứ hai vẫn không cháy.
Sự hy sinh phi phàm vì Đạo pháp của Bồ-tát Quảng Đức
đã làm chấn động dư luận khắp hoàn cầu. Báo chí thế giới đăng tin lên trang đầu
cùng hình ảnh tự thiêu của ngài. Việc ngài tự thiêu, được đồng bào cả nước biết
ngay chiều hôm đó, và đã gây xúc động sâu xa trong mọi tầng lớp trong và ngoài
nước, không phân biệt tôn giáo. Sự hy sinh vì đạo pháp của ngài đã làm cho chính
quyền Ngô Đình Diệm vô cùng hoảng hốt và lo sợ, tìm mọi cách đối phó với Phật
giáo bằng những thủ đoạn thâm độc hơn. Cũng chính điều đó đã làm cho phong trào
đấu tranh của Phật giáo toàn miền Nam trở nên cuồn cuộn như sóng dâng thác cuốn
để đi đến hồi kết thúc váo ngày 01 tháng 11 năm 1963, chế độ độc tài, gia đình
trị của họ Ngô sụp đổ, Phật giáo Việt Nam thoát khỏi một cơn pháp nạn.
Trước khi tự thiêu, ngài có để lại một bức tâm thư bằng
chữ Nôm “Lời nguyện tâm quyết”, nói rõ ý định và nguyện vọng của ngài. Điều mà
chúng tôi muốn nhấn mạnh là toàn văn bức tâm thư này không chứa đựng một mảy
may hận thù và tuyệt vọng nào, mà trái lại toát lên tình thương bao la, mang
tinh thần vô ngã vị tha, một hạnh Bồ-tát thật cao cả.
Bên cạnh bức tâm thư, ngài còn để lại năm bài kệ, dặn
dò bổn đạo và đệ tử hãy sống theo Bát Chánh đạo và Lục hòa, đoàn kết và giữ
vững niềm tin trong đạo pháp.
Cũng như ở miền Trung, hai mươi năm hành đạo ở miền
Nam, ngài đã khai sơn và đại trùng tu được 17 ngôi chùa. Cảnh chùa cuối cùng ngài
trú trì là chùa Quán Thế Âm, tại Phú Nhuận, tỉnh Gia Định (nay là số 90 đường
Thích Quảng Đức, phường 5, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh). Như vậy, ngài
đã có công xây dựng và trùng tu cả thảy 31 ngôi chùa ở miền Trung và miền Nam
nước ta.
Để ghi nhớ công hạnh của ngài, sau khi Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất ra đời, Hội đồng Lưỡng viện Tăng thống và Hóa đạo
trong một phiên họp trước ngày Phật đản năm 1964, đã đồng thuận quyết nghị cung
kính suy tôn ngài pháp vị BỒ-TÁT. Sau ngày đất nước thống nhất, Nhà nước đã
dùng pháp hiệu của Ngài để đặt tên cho đường Nguyễn Huệ cũ trước chùa Quán Thế
Âm là đường Thích Quảng Đức, quận Phú Nhuận.
Quả tim của Bồ-tát Quảng Đức là một chứng minh cụ thể
cho tấm lòng của muôn người con Phật luôn yêu chuộng hòa bình tự do và bình
đẳng nhưng cũng bất khuất trước nạn cường quyền và áp bức. Trái tim ấy trở
thành biểu tượng tinh thần của Phật giáo Việt Nam và là trái tim của nhân loại
đã và đang đấu tranh mãi cho tự do, hòa bình, hạnh phúc nhân sinh.
Ngoài Đơn xin tự
thiêu, ngài còn để lại Lời nguyện tâm
quyết viết bằng chữ Nôm viết vào ngày 04 tháng 6 (nhằm ngày 13 tháng 4
nhuần Quý Mão) tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn, địa chỉ số 243 đường Sư Vạn Hạnh,
quận 10, Tp. HCM. Lời nguyện tâm quyết của
ngài đã thể hiện tinh thần Vô ngã vị tha, Lợi lạc quần sanh của nhà Phật một
cách rốt ráo viên mãn. Ngài sẵn sàng tự nguyện hy sinh thân giả tạm của mình để
bảo tồn đạo pháp, để cảnh tỉnh nhà cầm quyền và kêu gọi họ hãy vì đất nước, vì
dân tộc mà hồi tâm hướng thiện, thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo, được
diễn đạt bằng một ngôn ngữ trong sáng giản dị, lời lẽ ôn hòa, thể hiện tinh
thần Bi-Trí-Dũng.
Tiếp theo, ngài nêu lên năm chí nguyện, với nội dung
cầu nguyện cho “Phật giáo trường tồn”,
“đất nước thanh bình, quốc dân an lạc”. Ngài cầu mong “Phật Trời gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm
nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam”, có ghi trong bản Tuyên ngôn
ngày 10 tháng 5 năm 1963, đó là:
1. Yêu cầu
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn Công điện triệt giáo kỳ của Phật
giáo.
2. Yêu cầu
Phật giáo phải được hưởng quy chế đặc biệt như các Hội truyền giáo Thiên Chúa
đã được ghi trong Dụ số 10.
3. Yêu cầu
Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.
4. Yêu cầu
cho Tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Yêu cầu
Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những người bị giết oan vô tội và kẻ
chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức”.
Trước khi
về cõi Phật, Hòa thượng còn “trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống Ngô
Đình Diệm, nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân, hãy thi hành chính sách
bình đẳng tôn giáo” có như thế thì nước nhà mới “vững yên muôn thủa”; đồng thời ngài còn nhắn nhủ Tăng, Ni, Phật tử
“nên đoàn kết nhất trí hy sinh để bảo tồn
Phật giáo”. Chỉ có tấm lòng của bậc Bồ-tát mới có suy nghĩ và phát biểu như
thế.
Cùng với Lời
nguyện tâm quyết, trước đó 5 ngày, tức ngày mùng 8 tháng 4 nhuần năm Quý
Mão (thứ Năm ngày 30 tháng 5 năm 1963), Hòa thượng đã viết bốn bài Kệ thiêu thân cúng dường Chánh pháp bằng
chữ Quốc ngữ với phong cách dung dị, lời lẽ trong sáng, dễ hiểu: Kính dâng thập phương chư Phật, Dâng chư
Hiền Thánh Tăng, Cùng toàn thể tín đồ Phật giáo, Cùng hàng Phật tử quy y, thế
độ và xuất gia.
Chỉ có bậc tu hành chứng quả Bồ-đề, đạt cái hạnh
Bát-nhã ba-la-mật (Trí tuệ đáo bĩ ngạn) của bậc Bồ-tát mới có được thần thái
như thế. Ngài Thích Quảng Đức chính là bậc Bồ-tát hóa thân để hoằng dương đạo
Phật trong thời mạt pháp. Lời nguyện tâm
quyết của ngài, tấm lòng vô ngã vị tha và đức Bi-Trí-Dũng của ngài đã được
Phật Tổ ấn chứng, vì thế trái tim của ngài sau bao nhiêu lần nung đốt vẫn
nguyên vẹn và càng đốt càng rắn như kim cương. Đó là Trái Tim vĩ đại, Trái Tim
Bất Diệt. Để giải đáp cho vấn đề này, xin được mượn lời của thầy Đức Nghiệp
(nay là Hòa thượng Phó Pháp chủ thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật
giáo Việt Nam) trả lời câu hỏi của một phóng viên quốc tế trong một cuộc họp
báo lúc bấy giờ: “Đó là do ngài Thích Quảng Đức phát đại thệ
nguyện, nung nấu một ý chí phi thường vì đạo pháp và hòa bình cho dân tộc nên
đã biến thành một năng lượng đặc biệt làm trái tim bất hoại”.
* GVCC Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG
TP.HCM
NCL
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, NXB.Văn
Học, Hà Nội, tái bản, 1994.
2. Vân Thanh, Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam, không
ghi NXB, Sài Gòn, Phật lịch 2518 (năm 1975).
3. Lê Mạnh Thát, Một số tư liệu mới về Bồ-tát Quảng Đức,
NXB.Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh, 2005.
4. Trương Văn Chung, Nguyễn
Công Lý, Thích Nhật Từ (Đồng chủ biên), Nhìn
lại phong trào Phật giáo Miền Nam 1963, NXB.Phương Đông, TP.HCM, 2013.
5. Thích Nhật Từ,
Nguyễn Kha (Đồng chủ biên), Pháp nạn Phật
giáo 1963: Nguyên nhân, bản chất và tiến trình, NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2013.
6. Nguyễn Công Lý, Tinh thần vô ngã vị tha của Bồ-tát Quảng Đức
qua Lời nguyện tâm quyết và Kệ thiêu thân cúng dường, Tạp chí Xưa và Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam, số 430 và 431 (tháng 6 và tháng 7-2013).
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.
04-HS.8352.