I. DẪN NHẬP
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng
Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư
tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo
truyền thống Phật giáo Bắc phương; từ rằm tháng 6 đến
rằm tháng 9 theo truyền thống Phật giáo Nam phương. An
cư có bốn mục đích chính: 1. Mùa mưa, cần an cư cấm túc
để tránh dẫm đạp côn trùng, khỏi bị cư sĩ than phiền. 2.
Việc an cư mùa mưa đã có trước thời Phật, đức Phật chỉ
hợp pháp hóa, Ngài thấy thời gian này là thích hợp để
chư Tăng ở yên một chỗ tu tập tiến bộ tâm linh. 3. Biểu
hiện tinh thần hòa hợp của cộng đồng Tăng lữ trong cùng
một trú xứ. Nhiệm vụ các tỳ-kheo sống chung là phải giáo
giới lẫn nhau, chỉ điểm và sách tấn nhau, chứ không thể
sống như những người câm. 4. Tạo điều kiện cho Phật tử
thân cận gần gũi chư Tăng để học hỏi giáo pháp, gọi là
thân cận thiện sĩ. [1]
Và trong các bộ luật của chính thống giáo như luật Tứ
phần của Pháp tạng bộ, Ngũ phần của Hóa địa bộ v.v…
không thấy nói gì đến chư Tăng an cư có nghi thức cúng
“Quá đường”. Luật Tứ phần ghi chép trong mùa an cư [2]:
Kết cương giới an cư, phân chia phòng xá, phân chia tọa
cụ, ngọa cụ, quy định tiền an cư, hậu an cư, chỉ dạy
cách sinh hoạt trong một trú xứ. Hoặc phép tắc xuất
ngoại trong thời gian an cư: nếu có thí chủ mời, hay vì
duyên sự quan trọng được phép đi từ 7 ngày đến 40 ngày,
nếu quá bị coi là phá hạ. Và đặc biệt an cư bất cứ nơi
đâu nơi ấy phải có thí chủ cung cấp phẩm vật, thực phẩm
trong ba tháng.
Ngày nay chư Tăng Phật giáo Nam phương linh hoạt, tại
Thái Lan các tỳ-kheo vẫn đi khất thực, hạn chế ra ngoài;
khóa lễ tu tập nghiêm ngặt hơn. Riêng hệ Phật giáo An
nam Tông (Annamnikāya, tức Phật giáo Bắc tông tại Thái),
an cư theo lịch Việt Nam nhưng sinh hoạt không khác gì
ngày thường, không “Quá đường” cúng ngọ; 3 tháng an cư ở
trong cương giới, ít đi ra ngoài, không đi quá bảy ngày…
II. KHÁI QUÁT NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
Chúng ta trở lại Phật giáo Bắc tông ở Việt Nam, an cư ra
sao? Căn bản thì an cư sinh hoạt theo luật định nhưng
khác biệt là thêm nghi cúng Quá đường trang nghiêm khi
thọ trai. Từ “Quá đường 過堂”, xuất xứ trong hai tác phẩm:
“Thiền lâm tượng khí tiên 禪林象器箋”, là bộ từ điển Phật
giáo giải thích về những qui củ, chức vị, lễ tiết, khí
cụ… trong thiền môn, do thiền sư Trung Đạo hiệu Vô Trước
(1653-1744) dòng Lâm tế Nhật Bản biên soạn, ấn hành năm
1741. Tác phẩm thứ hai là “Thiền lâm bị dụng thanh quy
禪林備用清規”, thiền sư Nhất Hàm biên tập năm 1311 thời nhà
Nguyên, nội dung gồm: lễ pháp, tụng kinh, tọa thiền,
Bách trượng quy cảnh văn, nhật dụng thanh quy… [3]. Từ
“Quá đường” được hiểu thông tục là đi qua trai đường
dùng cơm. Cả hai tác phẩm này không có chi tiết nghi
cúng Quá đường như Phật giáo Bắc tông ở Việt Nam đang
hành trì. Vậy nghi thức ấy từ đâu ra? Chúng ta xem sơ
lược lại nội dung “Nghi thức cúng Quá đường”. Đầu tiên
bài kệ “chánh thân đoan tọa” và câu thần chú, chúng ta
tìm thấy trong nhiều tác phẩm Tỳ-ni nhật dụng lục (X60,
no. 1114, p. 148b1-3), Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu (X60,
no. 1115, p. 160a10-12) v.v… Bài kệ thứ hai, “triển bát”
trong Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu (p. 159c6), Sắc tu Bách
trượng thanh quy (chỉ có bài kệ không có câu thần chú)…
Những bài kệ tiếp theo: Quán không bát (quán bát không),
Quán thịnh mãn bát (quán bát đầy)…, hầu như trích dẫn từ
Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu. Đặc biệt khi bưng bát cúng
dường (dẫn từ nguồn “chuatutam.net”):
“Tay trái co ngón giữa và ngón áp, còn ba ngón dựng
thẳng để bát lên; tay mặt kiết ấn cam lồ, (ngón cái bên
tay phải đè lên ngón áp) để dựa ngang phía trong miệng
bát, rồi đồng xướng bài cúng dường:
Cúng dường Thanh tịnh Pháp thân Tì-lô-giá-na Phật,
Viên Mãn Báo Thân Lô-xá-na Phật,
Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích-ca Mâu-ni Phật,
…….
Ma-ha bát-nhã ba-la-mật.
Tam đức lục vị,
cúng Phật cập Tăng,
pháp giới hữu tình,
phổ đồng cúng dường,
nhược phạn thực thời,
đương nguyện chúng sanh,
Thiền duyệt vi thực,
pháp hỷ sung mãn.
Dâng cơm lên trán và bắt ấn cúng dường, cũng được gọi là
“cử án tề mi”, tức là đưa lên ngang chân mày để biểu tỏ
lòng tôn kính ba ngôi Tam Bảo…”
Bài cúng dường trên, từ đoạn “Thanh tịnh Pháp thân… đến
Ma-ha bát-nhã ba-la-mật”, trong Thiền lâm tượng khí tiên
quyển 17 (B19, no. 103, p. 524b1) giải thích đây là danh
hiệu Phật lễ lạy công đức khó nghĩ bàn. Từ đoạn “Tam đức
lục vị” đến “phổ đồng cúng dường”, nằm ở mục khác trong
Thiền lâm tượng khí tiên (p. 527a17), là bài kệ đọc chú
nguyện lúc dùng cháo. Đoạn “Nhược phạn thực thời… pháp
hỷ sung mãn”, trong kinh Hoa nghiêm (T10, no. 279, p.
71c17), Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu hương nhũ ký quyển 2
(X60, no. 1116, p. 189a18)… Như vậy toàn văn bài cúng
dường là sự tổng hợp và nghi thức kết ấn dâng bát, trong
sử liệu Hán truyền hiện còn chúng ta không thấy nói.
Nhiều nhà Phật học Việt Nam cho rằng nghi thức cúng “Quá
đường” bắt nguồn từ Trung Quốc, nhưng không ai để ý nội
dung tại sao có sự sai khác như vậy?
III. NGHI THỨC THỜI BÁCH TRƯỢNG
Ngược dòng lịch sử, thời kỳ đầu Phật giáo du nhập Trung
Quốc, Tăng nhân vẫn đi khất thực nhưng đến thời Đông Tấn
An đế năm 405, bắt đầu các nhà sư làm ruộng, bỏ khất
thực, với nhiều lý do: Thứ nhất, việc khất thực không
hợp với một xã hội rộng lớn và xem trọng lao động. Thứ
hai Tăng đoàn phát triển, nhiều tu viện ở nơi xa xôi hẻo
lánh khó dựa vào việc khất thực, đồng thời từ thời Nam
Bắc triều, hoàng tộc và quý tộc đã bố thí cho Tăng chúng
ruộng đất, không trực tiếp cúng dường thức ăn, cho nên
Tăng chúng tổ chức phương thức sản xuất tự cung tự cấp.
Lý do đó, đến đời Đường, thiền sư Mã Tổ kiến tạo tùng
lâm, thiền sư Bách Trượng chế tác thanh quy, chính thức
mở ra một hình thức sinh hoạt mới trong Tăng đoàn Trung
Quốc. Thời Bách Trượng (720-814), nghi thọ trai như sau
[4]:
“Khi nghe bản đánh không được vào Trai đường liền, mà
nên sai hành giả đi lấy bát… vào trai đường ngồi xuống
ghế phải xá chào người bên cạnh, chớ để y ca-sa vướng
vào mép ghế… Nghe tiếng kiền-trùy tưởng niệm: “Phật sinh
Ca-tì-la… nhập diệt Câu-hi-la.”.. Chuyển bát đọc: “Ứng
lượng khí (bát) của Phật con nay mở ra. … tam luân không
tịch.” Khi nhận thức ăn, tưởng niệm: Khi nhận thức ăn,
Nguyện cho chúng sanh,
Ăn bằng thiền duyệt,
Tràn đầy an vui.
Trước khi ăn quán năm điều (ngũ quán): 1. Xem cơm mình
nhiều ít xứng của người đem lại. 2. Xét đức hạnh mình đủ
thiếu nhận cúng dường. 3. Ngăn lỗi lầm của tâm tham khi
ăn. 4. Thức ăn này là thuốc hay để chữa thân gầy. 5. Vì
thành đạo nghiệp nên nhận thức ăn nầy…”
Chúng tôi toát yếu ý chính như thế. Hiện nay, nghi thức
cúng “Quá đường” của Phật giáo Bắc tông cả Việt Nam và
Trung Quốc hay Đài Loan gần như nhau, chỉ khác là ở Việt
Nam có nét đặc thù là lúc đọc bài cúng dường kết ấn bưng
bát cơm dâng lên. Vậy ai là tác giả cải biên hiệu chỉnh
nó?
IV. THIỀN SƯ NGUYÊN BIỂU
Theo sử gia Lê Mạnh Thát chứng minh, chính thiền sư
Nguyên Biểu biên soạn nghi thức cúng “Quá đường”. Khi
thiền sư Nguyên Biểu soạn Thọ giới nghi quỹ, ngay quyển
1 sau phần Yết-ma, ông đã chọn Tịnh độ sám nguyện nghi
của Tổ sư Từ Vân (964-1032) để đưa vào sám hối. Đặc biệt
giữa những tờ 21b1-22b8, có chép thêm phần Cúng dường
pháp. Đây là nghi thức cúng dường mà về sau trở thành
nghi thức Quá đường của chúng Tăng ở cả ba miền Trung
Nam Bắc trong mùa an cư với một vài cải biên cũng như
Nghi thức cúng ngọ tại các chùa trong cả nước. [5]
Thiền sư Nguyên Biểu (1836-1906) sinh ra dưới triều vua
Minh Mạng, thọ sa-di năm 1852, thọ giới cụ túc năm 1855.
Ông là người có công chấn hưng Luật học và tổ chức giới
đàn tại miền Bắc trong giai đoạn này (Phía Nam, từ Quảng
Bình trở vào, do Luật sư Pháp Chuyên Diệu Nghiêm
[1726-1798] chấn hưng). Thiền sư viết Thọ giới nghi quỹ
và Chư kinh nhật tụng tập yếu để sử dụng. Khi viết Thọ
giới nghi quỹ, thiền sư đã dựa vào hai bộ Yết-ma chính,
là San bổ tùy cơ Yết-ma huyền ti sao của Đạo Tuyên và
Đức Thành và Yết-ma chỉ nam của Hàm Tế – Chiêu Minh. Còn
Chư kinh nhật tụng tập yếu, ông dựa vào bản Chư kinh
nhật tụng lưu hành phổ biến ở Trung Quốc.
Tóm lại, sau khi Bách Trượng thanh quy ra đời, các tác
phẩm Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu (Độc Thể [1601-1679, cuối
đời Minh đầu đời Thanh] soạn), Tỳ-ni nhật dụng lục (Tánh
Kỳ soạn thời Minh) v.v tất cả đều y cứ vào thanh quy ấy
mà phát triển thêm; kể cả Thiền lâm tượng khí tiên và
Thiền lâm bị dụng thanh quy cũng sưu tập từ Bách Trượng
thanh quy. Cho nên nghi thức cúng “Quá đường” của thiền
sư Nguyên Biểu có chút giống Phật giáo Trung Quốc, chỉ
cải biên thêm nghi thức kết ấn dâng cơm cúng Phật.
V. KẾT LUẬN
Nghi thức cúng “Quá đường” là một nét đẹp trong thiền
môn của Phật giáo Bắc tông; tuy nhiên truyền thống này
ảnh hưởng từ “Bách Trượng thanh quy”. Thiền sư Bách
Trượng đã xây dựng một hệ thống riêng biệt cho giới luật
thiền tông, hệ Phật giáo Bắc tông thừa hưởng cái “cốt
tủy” của nó suốt một thời gian khá dái, song dần dà Tăng
chúng tôn vinh vẻ “hình thức” hơn là việc tu tập theo
giới luật Thanh văn của Phật chế. Do vậy mà ngày nay,
nhiều ngôi chùa Bắc truyền trọng thị nghi thức cúng “Quá
đường”, bắt buộc chư Tăng trong ba tháng an cư phải luôn
có mặt, sau giờ cúng “Quá đường” muốn đi đâu tùy ý. Việc
an cư cấm túc, tu tập thiền tư bị xem nhẹ và tổ chức
giảng dạy cho Phật tử gọi là “thân cận thiện sĩ” cũng
trắng hoàn toàn, chỉ giữ truyền thống hằng đêm có Phật
tử vân tập về chùa tụng niệm nhưng lời kinh Phật nói gì
thì như cảnh trong sương, khi mờ khi tỏ.
Trong lịch sử, ở Trung Quốc giới luật Thanh văn từng bị
coi thường, mãi đến thế kỷ thứ XVI, Vân Thê và Đức Thanh
mới chỉnh đốn lại giới luật Thanh văn. Giống như tại
Việt Nam, trước thời Pháp Chuyên và Nguyên Biểu, giới
luật Phật giáo chỉ lấy Bồ-đề tâm giới hay Bồ-tát tâm tức
giới thập thiện làm chính.
Nguyện đem công đức này hồi hướng đến sự thanh tịnh cho
Tăng-già, cho tứ chúng đồng tu trong mùa an cư Phật lịch
2567 thành tựu viên mãn.
Tâm Nhãn
1. Tuệ Sỹ- Yết-ma yếu chỉ, ch. vi. An cư và tự tứ, tr.
284.
2. Tứ phần p. 830b7 – 835c5.
3. Phật quang đại từ điển p. 6466 & 禪林象器箋 (https://books.masterhsingyun.org).
4. Sắc tu bách trượng thanh quy 勅修百丈清規 卷6, T48, no.
2025, p. 1144c18 & 漫談佛教的齋飯 (http://www.fodizi.tw/fojiaozhishi).
5. Lê Mạnh Thát – Vị trí của thiền sư Nguyên Biểu trong
lịch sử Phật giáo Việt Nam thế kỷ XIX và sau đó (file
word do tác giả cung cấp).