TÍNH THỜI GIAN, TÙY DUYÊN SÁNG TẠO VÀ TỒN TẠI TRONG DI SẢN VĂN HÓA THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH
tinh thoi gian
TÍNH THỜI GIAN, TÙY DUYÊN SÁNG TẠO VÀ TỒN TẠI TRONG DI SẢN VĂN HÓA THIỀN PHÁI
LÂM TẾ CHÚC THÁNH
Thích Thanh Tâm
Tóm tắt:
Tôn giáo không chỉ là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mà
còn làm cho văn hóa các dân tộc được bảo tồn. Thông qua sinh hoạt vật chất và
tinh thần của con người mà tôn giáo đã tô đượm cho văn hóa dân tộc nhiều sắc màu.
Vì vậy, di sản văn hóa tôn giáo là một loại di sản khơi nguồn từ quá khứ, nhưng
có tính hiện tại. Cái gọi là “di sản văn hóa tôn giáo” chính là một thực thể tồn
tại nào đó từ trong quá khứ được chuyển di tới hôm nay và hướng đến tương lai
như một giá trị đích thực.
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh là một trong những di sản văn hóa tôn giáo, mang
giá trị cả về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Do đó, khi nhìn từ góc độ
di sản văn hóa tôn giáo, có thể nhận chân giá trị của Thiền phái Lâm Tế Chúc
Thánh từ ba khía cạnh: Thứ nhất, tính thời gian, Thiền phái Lâm Tế Chúc
Thánh không chỉ là sự kiện tồn tại trong quá khứ kéo dài mãi tới hôm nay, mà còn
là sự kiện xuất phát từ ngày hôm nay hướng về quá khứ và hướng tới tương lai.
Thứ hai, tính tùy duyên sáng tạo, Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh không chỉ là
quá khứ tồn di trong hiện tại mà còn được cấu trúc lại trong hiện tại, không chỉ
được kế thừa mà còn luôn tùy duyên sáng tạo và phát triển từ quốc nội cho đến
quốc ngoại. Thứ ba là tính tồn tại, Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh không
chỉ là một hiện tượng cô lập, mà là sự kiện tồn tại với những sai biệt của một
chỉnh thể hóa tôn giáo ở Việt Nam cũng như thế giới. Như vậy có thể thấy Thiền
phái Lâm Tế Chúc Thánh và di sản văn hóa tôn giáo có quan hệ gắn bó hữu cơ giữa
tính chung và tính riêng, giữa chủ thể và khách thể, giữa truyền thống và hiện
đại, giữa bộ phận và chỉnh thể hệ thống. Do đó, bài viết này đề cập đến ba
khía cạnh, tính thời gian, tùy duyên sáng tạo và tồn tại của Thiền phái Lâm Tế
Chúc Thánh từ góc độ di sản văn hóa tôn giáo để làm sáng tỏ Thiền phái trong
từng nội dung lẫn ảnh hưởng hỗ tương văn hóa tôn giáo trong ngôi nhà tâm linh
hiện nay.
Từ khóa: Lâm Tế Chúc Thánh, di sản văn hóa tôn giáo, quá khứ - hiện
tại - vị lai.
1. Khái niệm di sản văn hóa tôn giáo
Di sản văn hóa là
di sản thuộc tính phi vật thể được thừa kế lại từ các thế hệ đi trước, duy trì
cho đến hiện tại và có thể dành cho cả các thế hệ tương lai. Di sản văn
hóa bao gồm di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Theo Peter Howard,
“Di sản rõ ràng là một vấn đề và nó trở nên như vậy ngay khi người ta gắn cho
nó những giá trị khác nhau. Những giá trị mà có thể được thấy trước như là một
loạt các lăng kính đặt trước mắt chúng ta, phù hợp với một vài thuộc tính của
chúng ta, làm thay đổi nhận thức của chúng ta về di sản”.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ
học, “Văn hóa là tổng thể nói chung
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.”
Như vậy, văn hóa phản ảnh những lề lối, tổ chức
sinh hoạt trong sự phát triển tinh thần, đạo đức, nghệ thuật sống trong những
hài hòa chung giữa con người và xã hội. Những điều này hoàn toàn phù hợp với
chức năng của tôn giáo, vì thế văn hóa chính là nền tảng thực thi của tôn giáo
hướng đến chân trời văn minh nhân bản. Cho nên,
văn hóa là tài sản, là di sản những thành tựu
của lao động và tư duy, những tinh hoa của con người thể hiện thành vật thể hay
những giá trị tinh thần phi vật thể, tất cả đem lại cái đẹp, cái thiện, cái chân
lý phổ quát trong quá trình tiến hóa của loài người. Vì thế tôn giáo cũng là văn
hóa bởi vì tôn giáo có nguồn gốc nhân bản, có những bản sắc nhân văn. Nói cách
khác, tôn giáo gắn liền với con người và tác động vào quá trình thăng hoa, tiến
hóa của con người.
Do vậy, từ góc độ di sản văn hóa tôn giáo có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam những
giá trị văn hóa tiêu biểu về mặt lịch sử, mỹ thuật, sự sáng tạo, ý niệm về sự
thiêng liêng, nuôi dưỡng đức tin của nhân dân. Di sản văn hóa Phật giáo đóng góp
rất lớn trong lĩnh vực kiến trúc và mỹ thuật theo từng thời kỳ lịch sử, giúp các
nhà nghiên cứu tìm hiểu, đánh giá những biến đổi về diện mạo của các di tích
Phật giáo.
“Tôn giáo giữ vai trò tiền phong trong việc
khai sáng nền văn minh nhân loại, điều này đối với các nhà chân tu mang lý tưởng
cứu đời, ai cũng đều nghĩ như vậy; nhưng việc khai sáng đó có đúng với khả năng
và tầm vóc hiện có của tôn giáo hay không đó chính là những khó khăn mà tôn giáo
cần phải vượt lên: khai triển giáo lý thật sâu rộng, thích ứng phù hợp được với
toàn diện đời sống, nơi gặp nhau của mọi nền tôn giáo, mọi trào lưu tư tưởng
tinh hoa của nền văn minh nhân loại còn đang tồn tại trong dung hợp khai phóng.”
Tóm lại, di sản văn hóa Phật giáo cũng đóng góp cho nền văn hóa dân tộc. Hệ
thống triết lý cao siêu của Phật giáo khi truyền vào Việt Nam đã được dân gian
hóa thành những biểu tượng, những chuẩn mực hết sức gần gũi và thân thuộc với
con người Việt Nam. Phật giáo trở thành một tôn giáo ăn sâu vào đời sống của mọi
tầng lớp nhân dân ở mọi giai tầng và ngày càng phát triển, là bởi tôn giáo này
với một hệ thống giáo lý, quan điểm triết học, tâm lý, đạo đức gần với con người
Việt Nam, hơn nữa trong quá trình tồn tại nó đã dung hợp, thích ứng với tín
ngưỡng bản địa, trở thành điểm tựa đức tin của người dân.
2. Những góc nhìn về Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh
Từ trình tự nghiên cứu, trước hết cần xác định nghiên cứu khách thể rồi mới tiếp
tục đi sâu nghiên cứu nội dung và hình thức giá trị di sản, tức là khảo sát đối
tượng Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh từ góc độ lý luận quan niệm về di sản văn hóa
tôn giáo.
2.1 Hướng nghiên cứu di sản:
Kể từ khi Tổ Minh Hải - Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền
Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua hơn 300 năm lịch sử hình thành và phát triển. Qua
ngần ấy thời gian có mặt trong ngôi nhà Phật giáo Việt Nam, các thế hệ Tăng nhân
của dòng thiền Chúc Thánh đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Đạo pháp và
Dân tộc.
Tổ Minh Hải chọn một địa điểm hoang vắng, thưa người ở phía Bắc thương cảng Hội
An dựng lên một thảo am để tu đạo, thu nhận đệ tử. Sau đó ngài lập nên Thiền
phái Lâm Tế Chúc Thánh và xuất kệ biệt truyền riêng cho đệ tử kế thế. Các Thiền
sư thuộc thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh đã đem ý chỉ của Tổ truyền bá khắp mọi
nơi. Ngày nay, Thiền phái Chúc Thánh có mặt khắp các tỉnh miền Trung và Nam Việt
Nam, thậm chí còn phát triển mạnh tại các nước Âu - Mỹ.
Dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh là một trong những thiền phái lớn của Phật giáo
Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại. Cùng với sự phát triển của thiền môn,
là những cảnh quan tôn giáo chùa miếu am, tháp được xây dựng theo triết lý
Thiền, rộng khắp trong không gian Chúc Thánh, đáp ứng cho việc tu thiền và sinh
hoạt lễ hội của tín đồ trong nước cũng như nước ngoài. Như vậy, trên cơ sở lý
luận về di sản văn hóa, chúng ta có thể xác định hướng nghiên cứu giá trị “di
sản” của Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh. Đó là lịch sử được kế thừa, là tư tưởng
triết học, sinh thái văn hóa cả về vật chất và tinh thần, cách thức tổ chức,
nghi thức tu tập, v.v.
2.2. Về mặt ra đời Thiền phái Chúc Thánh:
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh được hình thành từ ngài Minh Hải Pháp Bảo.
Ngài nối pháp đời 34 dòng Lâm Tế truyền theo bài
kệ của ngài Vạn Phong-Thời Ủy. Trước khi Thiền phái Chúc Thánh ra đời,
tại Quảng Nam đã có nhiều vị Thiền sư danh tiếng giáo hóa như: Minh Châu, Thạch
Liêm, Hưng Liên, v.v. Tuy nhiên, các ngài chỉ trụ một thời gian rồi ra đi. Ngài
Minh Châu cùng với 50 đệ tử vượt biển ra Đàng Ngoài vào tháng 3 năm Nhâm Tuất
(1682). Kế đến là hai thầy trò ngài Thạch Liêm và Hưng Liên của dòng Tào Động.
Ngài Thạch Liêm qua chỉ một thời gian ngắn, còn ngài Hưng Liên được phong Quốc
sư và trụ tại chùa Tam Thai. Sự hoằng hóa của các Thiền sư kể trên đã làm cho
người dân đất Quảng thấm nhuần Phật pháp, nhưng các Ngài tùy duyên giáo hóa,
chợt đến chợt đi khiến cho người con Phật nơi đây cảm thấy hụt hẩng, thiếu thốn.
Chính vì lẽ đó, khi Thiền sư Minh Hải quyết định trụ lại Quảng Nam hoằng hóa đã
đáp ứng được niềm khát khao mong đợi của đa số tín đồ quần chúng. Nếu như các
ngài Minh Châu, Thạch Liêm là người có công xây dựng nền móng thì ngài Minh Hải
là người có công kiến tạo tòa nhà Phật giáo Quảng Nam.
2.3 Về phương diện tư tưởng:
Ngài khai sơn chùa Chúc Thánh và xuất kệ truyền pháp như sau:
傳
法
名
偈
傳
法
字
偈
明
實
法
全
彰
得
正
律
為
宗
印
真
如
是
同
祖
道
解
行
通
祝
聖
壽
天
久
覺
花
菩
提
樹
祈
國
祚
地
長
充
滿
人
天
中
Truyền pháp danh kệ: Truyền pháp tự kệ:
Minh thiệt pháp toàn chương Đắc chánh luật vi tông
Ấn chơn như thị đồng Tổ đạo giải hạnh thông
Chúc thánh thọ thiên cửu Giác hoa bồ-đề thọ
Kỳ quốc tộ địa trường. Sung mãn nhân thiên
trung.
Bài kệ này bao gồm bốn mươi chữ và được chia ra làm hai phần. Phần
đầu gồm bốn câu đầu được dùng để đặt pháp danh và phần còn lại để dặt pháp tự.
Ngài Minh Hải có pháp danh chữ Minh và pháp tự là chữ Đắc. Tiếp đến, hàng đệ tử
của ngài theo thứ tự có pháp danh chữ Thiệt và pháp tự chữ Chánh như: Thiệt
Diệu-Chánh Hiền, Thiệt Dinh-Chánh Hiển, Thiệt Đăng-Chánh Trí, v.v. Chính sự
truyền thừa có thứ tự như vậy nên chúng ta dễ dàng nhận ra vị Thiền sư nào là đệ
tử ngài Minh Hải. Thiền phái Chúc Thánh là lấy theo tên ngôi chùa Chúc Thánh do
Tổ sư Minh Hải khai sơn. Từ đây, sữa Pháp lại được khơi dòng tại đất Quảng, lan
tỏa khắp các tỉnh thành, góp phần rất lớn trong sự nghiệp hoằng truyền Chánh
pháp.
Ở bài kệ truyền pháp danh, hai câu đầu là nói về chân đế. Nghĩa là các pháp xưa
nay vốn dĩ sáng tỏ tròn đầy, cùng với thể tánh Chơn như không có sự sai biệt.
Hai câu sau nói về tục đế, cầu cho Thánh quân sống lâu muôn tuổi và vận nước
được dài lâu muôn thuở. Ở bài kệ truyền pháp tự, hai câu đầu mang ý nghĩa lấy
giới luật làm tông, nên tuyên dương giới luật.
Về chữ Chúc Thánh, mặt Đạo pháp, là một người trưởng tử của Như Lai, chư Tổ thuở
quá khứ cũng như các thế hệ chúng ta ngày nay, ai ai cũng muốn cho Chánh pháp
cửu trụ thế gian để lợi lạc nhân quần xã hội. Ở đây, Thiền sư Minh Hải lấy hai
chữ Chúc Thánh để đặt tên cho ngôi chùa cũng có ý nghĩa như vậy. Thánh ở đây có
nghĩa là Thánh đạo. Ngài muốn Thánh giáo luôn luôn tồn tại ở thế giới Ta-bà này
để xoa dịu những nỗi thống khổ của kiếp nhân sinh. Về mặt Dân tộc, mỗi người
chúng ta ai cũng muốn có những vị vua anh minh cai trị đất nước, đem lại hòa
bình an lạc cho muôn dân. Vì thế, Chúc Thánh ở đây còn có nghĩa là Chúc cho
Thánh quân thọ lâu muôn tuổi để trị vì thiên hạ. Họ chính là những vị hộ pháp
đắc lực cho chư Tăng trong sự nghiệp truyền bá Chánh pháp.
3. Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh từ thuộc tính thời gian
Giá trị của di sản văn hóa không chỉ là giá trị lịch sử, mà quan trọng là giá
trị hiện tại của nó. Nhận thức được thuộc tính thời gian của di sản văn hóa tôn
giáo có thể đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới về nó.
Trước hết, nhận thức mới này sẽ chỉ cho thấy kết cấu thời gian liên tục của di
sản văn hóa. Có thể cường điệu những nhận thức về giá trị thực tại của di sản
văn hóa tôn giáo, song về cơ bản chủ yếu vẫn xuất phát từ nhu cầu, lập trường,
quan niệm của con người hiện tại, để xác định loại nội hàm văn hóa và đối tượng
cần được bảo hộ. Nội hàm của hiện tại, đã bao quát cả hiện tại và tương lai.
Muốn biết nguyên nhân đời trước, hãy nhìn những thụ hưởng ngày hôm nay; muốn
biết kết quả trong tương lai, hãy xem những hành vi hiện tại. Hiện tại của chúng
ta chính là kết quả của quá khứ, tương lai của chúng ta chính là kết quả của
hiện tại. Chỗ đứng ở hiện tại đã ngầm chứa cả ba giai đoạn quá khứ, hiện tại và
tương lai. Cho nên chúng ta không những phải nhận thức tính hiện tại của di sản
văn hóa tôn giáo từ thời điểm hiện tại, mà còn phải khẳng định giá trị lịch sử
của di sản và nhận thức di sản từ hiện tại hướng về tương lai.
3.1. Xét về nguồn gốc trực tiếp
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh là một trong những chi nhánh của dòng thiền Lâm Tế
tại Trung Hoa. Dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh được Tổ sư Minh Hải - Pháp Bảo khai
sáng vào những năm cuối thế kỷ XVII tại chùa Chúc Thánh tỉnh Quảng Nam. Vì thế,
dòng thiền này còn có tên gọi khác là Thiền phái Minh Hải - Pháp Bảo.
Các Thiền sư dòng Chúc Thánh đã đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân nên
dòng thiền này nhanh chóng phát triển. Hội An là chiếc nôi khai sinh của dòng
Lâm Tế Chúc Thánh. Lúc bấy giờ Hội An là một thương cảng trù phú nên có nhiều
người ngoại quốc đến sinh sống làm ăn, trong đó cộng đồng người Hoa chiếm đại đa
số. Với một lực lượng kế thừa hùng hậu, các Thiền sư dòng Chúc Thánh đã đáp ứng
được cả hai cộng đồng người Việt lẫn người Hoa. Các ngài Thiệt Diệu, Thiệt Thọ
và Thiệt Mẫn là người Hoa nên ngụ tại Chúc Thánh, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng
người Hoa. Còn Thiền sư Thiệt Dinh ra khai sơn Phước Lâm với sự hỗ trợ của các
ngài Thiệt Đạo và Thiệt Gia, đã thu hút sự quy ngưỡng cũng như đáp ứng được nhu
cầu tín ngưỡng của người Việt. Như vậy, trong hàng đệ tử xuất gia của Tổ Minh
Hải có cả người Hoa và người Việt. Các vị người Hoa ở Chúc Thánh và các vị người
Việt ở Phước Lâm đã tạo thành hai trung tâm hoằng pháp đầu tiên của dòng Chúc
Thánh.
Với tư tưởng phóng khoáng của tông Lâm Tế, cộng với nếp sống giản dị, thanh bần,
các thiền sư dòng Chúc Thánh gần gũi với nhân dân nên dễ dàng tiếp cận đi sâu
vào lòng quần chúng. Thời bấy giờ dân Quảng Nam phần lớn là dân di cư từ Bắc
vào. Từ lâu họ đã sống trong tư tưởng gò bó của Nho giáo nên rất chán ngán. Nay
có một trào lưu mới với những tư tưởng phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết nên
họ nhanh chóng tiếp nhận. Sự giản dị trong cách sống, chân tình trong giao tiếp
của các Thiền sư nơi đất Quảng đã tạo nên sự gần gũi thân mật dễ dàng hòa nhập
cùng cộng đồng.
3.2. Những nét cơ bản về phương pháp tu tập và tôn chỉ hành đạo
Qua bài thuật sự tích của Thiền sư Pháp Chuyên, đời 36 Lâm Tế Chúc Thánh, có thể
thấy được sự tu tập của các Thiền sư thời bấy giờ: “Ngài ngày ăn một bữa, xa
lìa tài sắc, không màng đến chuyện thế sự, thường xem kinh luật, tinh tấn cầu
đạo, tụng chú Đại bi một tạng, đảnh lễ Tam thiên, Vạn Phật, Hồng danh mỗi loại
năm lần, đem thiện căn này cầu cho tội chướng tiêu trừ, sớm thành Phật đạo”.
Điều đó cho thấy phương pháp tu tập là kết hợp hài hòa giữa Thiền-Tịnh, theo chủ
trương Thiền-Tịnh song tu của Thiền sư Vĩnh Minh-Diên Thọ (904-975). Nghĩa là
các Thiền sư tụng đọc kinh văn, lạy Phật sám hối để cầu tội chướng tiêu trừ theo
pháp môn Tịnh độ. Đồng thời thực tập thiền định, tham thoại đầu, vấn đạo để cầu
thầy ấn chứng sở đắc theo truyền thống Thiền tông. Sự vận dụng kết hợp
Thiền-Tịnh song tu đã đem lại sự lợi lạc cho hành giả và tha nhân. Về tự thân,
các Thiền sư đạt được sự an lạc do thiền định đem lại, thân tâm an lạc, nội lực
tăng trưởng nên thấy rõ thật tướng của mọi sự, mọi việc. Với pháp môn Tịnh độ,
các ngài đã giúp cho dân chúng ổn định tinh thần, có một niềm tin hướng về Tam
bảo.
Về tôn chỉ hành đạo, có thể khẳng định qua hai câu kệ sau: Chúc Thánh thọ
thiên cửu. Kỳ quốc tộ địa trường. Ngoài việc tu hành chứng ngộ tâm linh, các
Thiền sư dòng Chúc Thánh chủ trương nhập thế tích cực với tinh thần vô nhiễm.
Tôn chỉ hành đạo của Thiền phái Chúc Thánh kể từ ngày Tổ sư khai sơn cho đến nay
vẫn không thay đổi. Nhập thế tích cực cứu đời nhưng vẫn thong dong tự tại trước
mọi lợi danh. Tùy duyên hành đạo và bất biến giữ đạo luôn được áp dụng tùy từng
hoàn cảnh đã thể hiện được bản hoài của người Thích tử theo tinh thần: “Phụng
sự chúng sinh tức là cúng dường chư Phật.”
4. Đến thuộc tính tùy duyên sáng tạo
Di sản văn hóa tôn giáo là một loại tồn tại có từ trước, được con người hiện tại
tiếp thu và cấu trúc lại; di sản không chỉ được kế thừa mà còn được sáng tạo. Di
sản văn hóa tôn giáo được những chủ thể hiện tại gắn cho những ý
nghĩa của thời hiện tại. Cái gọi là “di sản” kỳ thực là những xác nhận được đưa
thêm vào giá trị của di sản từ nhu cầu của con người hiện tại. Quá trình xác
nhận này được tiến thêm một bước là di sản được tăng thêm ý nghĩa mới. Cho nên,
dựa vào quan niệm ngày càng phát triển của “di sản văn hóa tôn giáo”, thì những
giá trị chân chính của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh cũng ngày càng được phát
hiện nhanh chóng, và luôn được “sáng tạo” thêm, vì nhu cầu ngày càng cao của con
người, trong cuộc sống luôn biến đổi theo xu hướng hiện đại.
Trước hết quan niệm tu tập “tùy duyên tác Phật sự” trong sinh hoạt sơn môn. Kể
từ khi thiền sư Minh Hải xuất kệ truyền thừa, trong vòng một thế kỷ, Thiền phái
Chúc Thánh phát triển mạnh ở Quảng Nam và lan rộng theo bước chân Nam tiến vào
đến miền Gia Định. Tại Quảng Nam, đến cuối thế kỷ XVIII, các Thiền sư dòng Chúc
Thánh đảm nhiệm công việc hoằng hóa tại các chùa trong tỉnh và hình thành ba
trung tâm hoằng pháp: trung tâm Hội An nằm ở phía Đông với các tổ đình Chúc
Thánh, Vạn Đức, Phước Lâm; trung tâm Ngũ Hành Sơn nằm ở phía Bắc với hai ngôi
quốc tự Tam Thai và Linh Ứng; trung tâm Đại Lộc nằm ở phía Tây với tổ đình Cổ
Lâm. Cả ba trung tâm hoằng pháp của dòng Chúc Thánh tại Quảng Nam có sự liên hệ
mật thiết và hỗ tương cho nhau. Trong đó, các chùa Chúc Thánh, Phước Lâm giữ vai
trò trung tâm đào tạo Tăng tài, phân bổ đến các chùa trong tỉnh. Bấy giờ, việc
sinh hoạt của sơn môn cũng còn đơn giản. Thiền tông với chủ trương “Bất lập văn
tự” nên các Thiền sư không có mở trường dạy học mà chủ yếu là thầy trò truyền
dạy cho nhau, thực tập thiền định và ấn chứng sở ngộ.
Sau đó là tổ chức hệ phái. Những ngày đầu hình thành, môn phái Chúc Thánh chỉ
sinh hoạt đơn giản với danh xưng Chư tự sơn môn. Lúc đó, sự tổ chức còn
sơ sài, chùa nào có bậc cao tăng thạc đức, uyên thâm giáo điển là Tăng chúng quy
tụ về theo học. Thông thường, các Thiền sư danh tiếng đều trụ tại đạo tràng
Phước Lâm. Vì thế Phước Lâm đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của môn
phái Chúc Thánh. Đến năm Nhâm Thân (1992), nhân dịp khánh thành bảo tháp Tổ sư
Minh Hải, môn phái Chúc Thánh mới chính thức thành lập. Đây là nhu cầu thiết yếu
để duy trì truyền thống và phát triển tông môn. Chư Tăng Ni thuộc môn phái khắp
các tỉnh thành trong cả nước đều vân tập về Chúc Thánh tổ chức hội nghị thành
lập môn phái. Danh xưng chính thức được gọi là Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh và đặt
trụ sở tại tổ đình Chúc Thánh-Hội An.
Xuyên suốt 300 năm truyền thừa trên đất Quảng, Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh hình
thành và phát triển theo thời gian. Dần theo năm tháng, với những chuyển biến
của đất nước, môn phái Chúc Thánh có những tổ chức cụ thể để duy trì truyền
thống tông môn. Sự thành lập môn phái Lâm Tế Chúc Thánh vào năm Nhâm Thân (1992)
là đỉnh cao của tinh thần hòa hợp của Phật giáo. Đây là một tổ chức kiện toàn
nhất của dòng Lâm Tế Chúc Thánh từ trước đến nay.
5. Và thuộc tính tồn tại của chỉnh thể
Sự hiện tồn mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong tổng thể của nhiều mối quan hệ.
Từ nguyên lý hệ thống, cấu trúc nội tại của mọi sự vật và hiện tượng là một tổng
thể hoàn chỉnh, để định hình và quan trọng hơn để sự vật, hiện tượng vận động và
phát triển. Vì vậy khi xem xét sự tồn tại của mọi sự vật khách quan, không thể
không quan tâm tới những mối quan hệ bên trong và bên ngoài, tạo thành tính
chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy.
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh không hề tồn tại cô lập, mà bản thân Thiền phái này
tồn tại trong tính sai biệt của một chỉnh thể. Trước hết Thiền phái Lâm Tế Chúc
Thánh có cội nguồn từ Phật giáo Ấn Độ. Thiền phái này đã kế thừa và sáng tạo từ
tinh hoa của chi phái Thiền Lâm Tế tại Trung Hoa, sau đó còn dung hợp với cả văn
hóa dân tộc Việt Nam, gần nhất là văn hóa bản địa Quảng Nam. Hơn nữa, Thiền phái
này còn có cả một quá trình đồng hành cùng với lịch sử dân tộc Việt Nam. Độ lan
tỏa ảnh hưởng của nó không chỉ ở Việt Nam mà còn mở rộng ra nhiều nước trên thế
giới. Ở đây, rõ ràng có sự sai biệt trong sự thống nhất về tinh thần của Phật
giáo. Sự sai biệt này có thể tìm thấy từ triết lý Thiền, cách thức tu tập, tổ
chức hệ thống hoằng dương Phật pháp, đến những yếu tố cảnh quan môi trường tâm
linh, lễ hội Phật giáo và cả quá trình hiện đại hóa Thiền phái này, trong trường
kỳ lịch sử.
Sự tập hợp thống nhất, hoàn chỉnh của nhiều yếu tố, từ văn hóa vật thể đến văn
hóa phi vật thể, từ sinh hoạt cộng đồng, lịch sử truyền thống đến đương đại, từ
địa phương cho tới quốc gia trung ương, kể cả trong khu vực và quốc tế…, tất cả
được gắn kết mật thiết trong một chỉnh thể rộng lớn về không gian - thời gian,
về cả nhân lực và vật lực. Tất cả gắn kết chặt chẽ hơn cả về tính tự giác, lẫn
những quy định rõ ràng, về quyền lợi và nghĩa vụ của từng cá nhân và của từng
khu vực, trong việc tu tập, vận hành Thiền phái. Điều đáng quan tâm là vị thế
của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh không chỉ ảnh hưởng trong lịch sử giữ nước của
dân tộc, mà còn lan tỏa sang nhiều nước trên thế giới, với nhiều tu viện, chùa
được xây dựng và thu hút nhiều tín đồ tu tập.
6. Kết luận
Kể từ ngày Tổ sư Minh Hải chấn tích khai sơn, các đệ tử của ngài đã kế thừa xứng
đáng sự nghiệp của thầy tổ nên môn phong Chúc Thánh nhanh chóng hình thành và
phát triển. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, các Thiền sư dòng Chúc Thánh đã đóng vai
trò chủ đạo trong việc truyền pháp tại Quảng Nam, khiến cho Phật giáo tại nơi
đây sớm ổn định và phát triển rực rỡ. Các tổ đình Chúc Thánh, Phước Lâm, Tam
Thai, v.v. trở thành những trung tâm hoằng pháp chính tại Quảng Nam. Từ những tổ
đình này, các vị Tổ sư dòng Chúc Thánh đã đào tạo nhiều thế hệ “Như Lai sứ giả”
đem tư tưởng của Tổ cũng như pháp kệ truyền bá rộng rãi từ đất Quảng vào đến các
tỉnh miền Nam. Ngày nay, theo bước chân người Việt xa xứ, Tăng nhân Chúc Thánh
có mặt khắp các châu lục để làm tròn sứ mệnh “Che chở hồn dân tộc” của mình, góp
phần đem ánh sáng Chánh pháp cũng như giới thiệu 2.000 năm lịch sử thăng trầm
truyền bá Phật giáo Việt Nam đến với các nước phương Tây.
Tóm lại, nhận thức về di sản văn hóa tôn giáo không chỉ cần quan tâm tới bản
thân sự tồn tại của di sản, mà quan trọng hơn là phải hết sức coi trọng phương
thức sinh tồn. Điều này đã đem lại nhận thức hoàn chỉnh, sâu sắc khi chúng ta
muốn bảo tồn và phát huy giá trị của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh trong thời đại
hiện nay.
Tài liệu tham
khảo
1.
Lê Văn Lợi (2012), Văn hóa tôn giáo trong đời sống tinh thần xã hội
Việt Nam hiện nay, NXB.Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
2.
Peter Horward (2003), Heriatge:
Mangement, Interpretation, Identity; Continuum,
London - New York.
3.
Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển
tiếng Việt, NXB.Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản.
4.
Viện Văn hóa và Phát triển (2006), Giáo trình Lý luận văn hóa và đường
lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB.Lý luận Chính trị, Hà Nội
5.
Thích Giải Nghiêm,
Tìm hiểu sự hình thành và phát triển Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam,
https://www.chuabuuchau.com.vn/luan-van-hoi-thao/tim-hieu-su-hinh-thanh-va-phat-trien-cua-thien-phai-lam-te-chuc-thanh-tai-quang-nam-thich-giai-nghiem_1111.html
6.
Đinh Kiều Nga, Bản
sắc văn hóa Việt Nam qua Di sản văn hóa tôn giáo,
http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/3589/Ban_sac_Van_hoa_Viet_Nam_qua_Di_san_van_hoa_ton_giao_Phan_I_
7.
Đặng Thị Lan, Về vai
trò của đạo đức tôn giáo trong đời sống xã hội,
http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Triet-hoc-tinh-than/Ve-vai-tro-cua-dao-duc-ton-giao-trong-doi-song-xa-hoi-382.html
8.
Lê Văn Lợi, Bảo tồn,
phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc đổi
mới đất,
http://lyluanchinhtri.vn/
home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/562-bao-ton-phat-huy-nhung-gia-tri-van-hoa-dao-duc-tot-dep-cua-ton-giao-trong-cong-cuoc-doi-moi-dat.html
9.
Thích Như Tịnh, Lịch
sử truyền thừa Thiền phái Chúc Thánh,
http://hoavouu.com/images/file/9xUXfvQW0wgQALtq/lich-su-truyen-thua-thien-phai-chuc-thanh-thich-nhu-tinh.pdf
10.
http://www.danchimviet.info/archives/28751/th%E1%BB%B1c-t%E1%BA%A1i-van-hoa-v%E1%BB%9Bi-ton-giao/2011/02)
Peter Horward (2003), Heriatge:
Mangement, Interpretation, Identity; Continuum,
London - New York, tr.216.