Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi với dòng thiền Liễu Quán ở phương Nam

thien su te nhon

Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi với dòng thiền Liễu Quán ở phương Nam

Thích Thánh Minh

 

I. Hoàn cảnh ra đời và vai trò của thiền phái Liễu Quán

1. Bối cảnh lịch sđất phương Nam

            Thông đạt lẽ trời đã mấy ai

            Sấm đề tiên đoán việc đều hay.

            "Hoành sơn nhất đái" dung con cháu

            Hậu thế nhờ ơn cụ chỉ bày.

                                    (Tứ tuyệt hoài cảm - Từ Xuân Lãnh)

            Khi vua Trung Tông Lê Duy Thuyên băng hà không có con kế vị, Trịnh Kiểm muốn lên ngôi vua nhưng sợ hai người em vợ là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng là con của tướng quân An thành hầu Nguyễn Kim tranh giành quyền lực với mình nên tìm cách giết Nguyễn Uông đi. Nguyễn Hoàng lo sợ nên cho người tham vấn với Nguyễn Bỉnh Khiêm là người thông thái Kinh Dịch và am tường Phật học.

            Vào năm 1558, Trạng Trình Nguyễn Bính Khiêm đã truyền cho Nguyễn Hoàng tám chữ ngắn gọn: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Nhận được mật ngữ này như nắm được chìa khóa vàng mở cửa tương lai, Đoan quận công Nguyễn Hoàng cùng họ hàng đã vượt Hoành Sơn để gầy dựng cơ nghiệp trên vùng đất mới, và về sau các chúa Nguyễn kế thừa đã cũng cố thế lực của mình ở đất phương Nam, đối lập với thế lực phương Bắc mà lịch sử gọi là Đàng Trong - Đàng Ngoài. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng là nhà lãnh đạo tài ba. Ông đã dung hòa ba nguồn tư tưởng lớn Thích, Đạo, Nho, và cùng với tài đức của mình, đã cảm phục lòng dân hai xứ Thuận-Quảng. Năm 1611, Chiêm Thành xâm lấn biên giới, Nguyễn Hoàng sai đem quân đi đánh, lấy đất lập ra phủ Phú Yên.

            Đầu thế kỷ XVII, chúa Sãi Phúc Nguyên gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp. Năm 1623, chúa xin cho người Việt đến làm ăn ở Prey Kor (Sài Gòn) và gây dựng những cơ sở đầu tiên của chúa Nguyễn trên đất Nam Bộ.

            Năm 1653, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần mở rộng đất đến Phan Rang, đặt phủ Diên Khánh (Khánh Hòa). Chúa Hiền đã làm cho đời sống văn hóa tín ngưỡng phát triển mạnh và Phật giáo trong thời kỳ này cũng được khởi sắc.

            Năm 1665, thiền phái Lâm Tế đã được Tổ sư Siêu Bạch Hoán Bích - Nguyên Thiều Thọ Tông truyền vào đất Phương Nam. Năm 1692, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu dẹp loạn quân Chiêm Thành và sau đó lập ra phủ Bình Thuận. Đến năm 1697, thiền phái Tào Động được Tổ sư Đại Sán Thạch Liêm truyền vào đất phương Nam.

            Chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát hoàn thành sứ mạng cuộc Nam tiến vào năm 1757. Tròn một thế kỷ rưỡi, toàn bNam Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp đã nhập vào Đàng Trong Đại Việt. Vào triều đại Nguyễn Phúc Khoát, thiền phái Liễu Quán, một dòng thiền mới của Đại Việt xuất phát từ chùa Bảo Tịnh (Phú Yên), chùa Viên Thông và Thiên Thai Thiền Tôn (Huế), đã lan tỏa khắp xứ Đàng Trong. Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát thường đến chùa Viên Thông tham vấn Phật pháp với Thiền sư Liễu Quán ở trên núi nên ngọn núi có chùa Viên Thông được gọi là núi Ngự. Năm 1943, khi Tổ Liễu Quán viên tịch, chúa Võ Vương sắc làm bia ký ca ngợi đạo hạnh của Thiền sư, ban thuỵ hiệu là Chánh Giác Viên NgHòa thượng. Đến năm 1747, chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa Báo Quốc và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc tứ Báo Quốc tự”, bên trái có ghi hàng chQuốc vương ttế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc chúa Nam Hà”. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán.

2. Vai trò của thiền phái Liễu Quán ở đất phương Nam

            Công hạnh Thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán được khắc ghi đậm nét trên văn bia tháp ở chùa Thiền Tôn tại núi Thiên Thai Huế:

Lờ đờ nước chảy

Nguồn xa dòng dài

Đèn tuệ mồi lữa

Đạo Tổ sáng hoài

Cháu con vô s

Như voi như rồng

Núi báu bỗng hiện

Tôn phong siêu l

Trí biện dung thông

Cơ thiền nhạy bén

Hóa duyên đã mãn

Ai nấy tôn phong

Bên núi Thiên Thai

Dựng tháp Vô Phùng

Pháp thân hiển lộ

Ở giữa muôn trùng.

            Năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), tháng Tư, ngày tốt, Trung Hoa, Phúc Kiến, Huyện Ôn Lăng, chùa Tang Liên, cháu trong đạo là Hòa thượng Thiện Kế soạn. (HT.Thích Thiện Siệu dịch nghĩa)

            Sau khi Tổ Thiệt Diệu Liễu Quán viên tịch, dòng thiền Liễu Quán đã được thắp sáng bởi công hạnh của các đệ tử và pháp tôn, đã làm rực sáng Phật pháp nơi miền Nam đất Việt. Phật giáo đất phương Nam phát triển theo sự mở rộng bờ cõi của các chúa Nguyễn, từ Thuận Hóa vào Gia Định và đến mũi Cà Mau. Song song với việc đưa lưu dân đến khai khẩn đất đai, lập làng dựng ấp, mở rộng lãnh thổ, các đời chúa Nguyễn chọn Phật giáo làm chỗ dựa tinh thần để an dân trị quốc. Nhiều ngôi chùa được tạo dựng đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người dân như cầu an khi đau ốm, cầu siêu khi qua đời. Bom rơi, đạn nổ, đói khổ, đọa đày là những hình ảnh kinh hoàng trên khắp nẽo đường quê hương. Chư Tăng đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn đời sống tinh thần, an lạc xã tắc, điều hòa những dao động tâm thức của con người trước những thảm cảnh chiến tranh, và họ là những tu sĩ tiên phong rời kinh đô Phú Xuân, theo đường biển vào Nam, lập am hành đạo trên vùng đất Chân Lạp:

Vạn lý kinh đô biệt

Nhật ngộ đạo phi quân

Thiệp thuỷ đăng sơn viễn

Tâm ấn phục Huỳnh Mai.

Ấn ảnh tùng trung kh

Dạ nguyệt độc chinh nam

Lữ hành vô Phật địa

Thiếu thất tỵ thời hồ.

(Văn bia Thiền sư Nguyễn Đăng, chùa Bửu Hưng Đồng Tháp)

            Khi tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn chấn hưng và đọc lại "Tuyển tập Điều lệ - Quy chế - Hiến chương Phật giáo Việt Nam giai đoạn 1932-2000" do Trung tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang ấn hành năm 2016, chúng ta thấy phần lớn những điều lệ của các hội Phật học trong những năm chấn hưng Phật giáo là do những danh Tăng thuộc tông môn Liễu Quán biên soạn. Những vị này được đào tạo qua các trường Phật học Tây Thiên, Báo Quốc, Phật học đường Nam Việt; và họ biên soạn các điều lệ sao cho phù hợp với từng thời kỳ để cho dòng sinh hoạt Phật giáo được thích ứng với xã hội nhưng không xa rời tôn chỉ và pháp môn tu học của thiền phái Liễu Quán:

Đường lớn thực tại

Biển thể tính trong.

Nguồn tâm thấm khắp

Gốc đức vun trồng.

Giới định phước huệ

Thể dụng viên thông.

Quả trí siêu việt

Hiểu thấu nên công.

Truyền giữ lý mầu

Tuyên dương chính tông.

Hành giải song song

Đạt ngộ chân không.

(Kệ truyền thừa thiền phái Liễu Quán - Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch)

            Dòng thiền Liễu Quán với pháp môn tu tập thuần Việt, phù hợp với nhu cầu tâm linh của người Việt đã làm rạng danh Phật giáo Ðàng Trong trong thời kỳ chấn hưng Phật giáo; và ngày nay chư Tăng thuộc môn phong pháp phái Liễu Quán đang hành đạo ở nhiều quốc gia trên thế giới, những nơi có người Việt định cư, đã tiếp tục thắp đuốc, trao đèn Chánh pháp để xiển dương Phật pháp.

II. Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi với dòng thiền Liễu Quán

1. Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi

            Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi là một trong những đệ tử đắc pháp của Tổ sư Thiệt Diệu Liễu Quán. Là người có công lớn trong việc khai sơn tạo tự hoằng truyền Phật pháp ở đất phương Nam, công hạnh của Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi được nhắc đến qua một số sử liệu như: Thích song Tn của Đại sư Tịnh Hạnh, Việt Nam Phật giáo sluận của Nguyễn Lang, Phật giáo slược của Hòa thượng Mật Thể, Thiền tông thế kỷ 20 của Thiền sư Thích Thanh Từ, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức. Hành trạng của Thiền sư cũng được biết đến qua Chánh pháp nhãn tạng còn lưu truyền tại tổ đình Hội Phước Nha Trang, chùa Hội Tôn Bình Dương,qua long vị của ngài được thờ tại các ngôi chùa nổi tiếng như Báo Quốc, Bảo Tịnh, Hồ Sơn ở miền Trung cũng như nhiều chùa khác miền Nam. Tuy vậy những tư liệu liên quan đến ngài chưa được hệ thống mạch lạc và khảo cứu tường tận.

Theo tư liệu tại tổ đình Báo Quốc, vào năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747), chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cung thỉnh Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi từ tổ đình Thuyền Tôn ra làm trú trì chùa Báo Quốc trong đại lễ lạc thành.

Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi có rất nhiều thiện hữu tri thức xin xuất gia, trong đó có những vị nổi danh như: Thiền sư Đại Triệt, Thiền sư Đại Trí Quảng Thông, Thiền sư Đại Nguyệt Linh Chiếu, Thiền sư Đại Quang Chí Thành Huệ Chiếu, Thiền sư Đại Bửu Ngọc Sâm chùa Vĩnh Quang, Đại Ngạn Từ Tấn khai sơn Chùa Hội Khánh Bình Dương, v.v.

            Năm 1752, Thiền sư Đại Triệt là vị đệ tử cuối được Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi truyền kệ phú pháp:

       
       
       
       

Phiên âm:

Pháp phú bổn kế tôn

Chư tướng tổng thị không

Pháp pháp diệc phi pháp

Vạn pháp tại kỳ trung.

Tạm dịch:

Trao pháp vốn nối tông

Các tướng thảy đều không

Các pháp và phi pháp

Muôn pháp ở bên trong.

            Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi viên tịch vào ngày 11 tháng Chạp năm Quý Dậu (1753), được ban thụy hiệu là Giác Viên. Đồ chúng lập tháp trong khuôn viên phía trước chùa, bên cạnh tháp của Thiền sư Tế Ân Lưu Quang. Văn ở bia tháp ngài như sau: “Cảnh Hưng thập tứ, tuế thứ Quý Dậu lục nguyệt cát đán lập. - Sắc tứ trùng hưng Báo Quốc Hữu Bùi Tế Công, thụy Viên Giác Lão Hòa thượng chi tháp. - Tpháp môn nhân cập trĩ đồ đồng tự”.

2. Chùa Báo Quốc nơi Tổ sư Liễu Quán tu học và Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi thừa kế

            Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long, đường Báo Quốc, Phường Đúc, thành phố Huế. Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII. Đây là di tích lịch sử nơi mà Tổ Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm.

            Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc tứ Báo Quốc tự”, bên trái có ghi hàng chữ “Quốc vương từ tế đạo nhân ngự đề”, bên phải có dòng lạc khoản “Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật”. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ “Quốc chúa Nam Hà”. Hiếu Võ vương Nguyễn Phúc Khoát đã sắc chiếu cử Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi trụ trì chùa Báo Quốc.

            Thời Tây Sơn, chùa Báo Quốc bị chiếm dụng làm nhà kho chứa diêm tiêu. Mãi đến năm 1808, hoàng hậu Hiếu Hương chỉ đạo tái thiết lại ngôi chùa, đúc đại hồng chung, xây tam quan, đổi tên chùa thành Hàm Long Thiên Thọ tự và Thiền sư Đạo Minh Phổ Tịnh được mời về trụ trì.

            Bước sang triều Nguyễn, vua Minh Mạng đến thăm chùa vào năm 1824 và sắc tứ tên là Báo Quốc tự. Năm 1858, nhà vua đã tổ chức đại giới đàn tại đây. Kế thế trụ trì tiếp theo sau Thiền sư Đạo Minh Phổ Tịnh là các danh tăng như: Tánh Thiên Nhất Định, Tánh Chiếu Nhất Niệm, Hải Thuận Lương Duyên, Thanh Nhãn Tâm Quảng. Tâm Truyền và Tâm Khoang làm Tăng cang chùa Báo Quốc.

            Vào năm 1917, khi J.A. Laborde đến khảo sát để viết về chùa Báo Quốc còn thấy trong khuôn chùa có 19 ngôi tháp, mà ngôi tháp Tổ Tế Nhơn oai uy nghiêm nhất. Tháp có 6 tầng, cao đến 4m70. J.A. Laborde không chép lại câu văn bia tháp bằng chữ Hán mà chỉ nói là tháp của Hòa thượng Bùi Công húy Viên Giác, là người có công trùng hưng chùa Báo Quốc. Nhưng L. Cadière đã có chép câu văn ở bia tháp Ngài như sau: “Cảnh Hưng thập tứ, tuế thứ Quý Dậu lục nguyệt cát đán lập. - Sắc tứ trùng hưng Báo Quốc Tự Phỉ công, thụy Viên Giác Lão Hòa thượng chi tháp. - Tự Pháp môn nhân cập trĩ đồ đồng tự”. J.A. Laborde cho biết Tự Ph chùa Báo Quốc viết tên ngài là Hữu Phỉ. L. Cadière ngờ rằng người ta ghi và đọc sai từ đầu. Ông cho rằng ngài chính là Hữu Bùi và Bùi Công mới hợp lý. Bởi trong chữ Hán, hai chữ Phi và Bùi viết gần tương tự, cho nên người ta có thể đọc và ghi nhầm! Giả thuyết của L. Cadière có thể chấp nhận được, vì chính ngài Hữu Bùi được xem là vị Tổ đã trùng hưng chùa Báo Quốc mà chúa Nguyễn Phúc Khoát là người ngoại hộ; cũng bởi đó mà tháp ngài mới được xây cao lớn và uy nghiêm nhất trong số 19 tháp ở vườn chùa Báo Quốc xưa. J.A. Laborde chỉ nói tháp được xây dựng bởi chư Tăng và môn đệ của Tổ, vào năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753).

Trong phong trào chấn hưng Phật giáo vào những năm 1930, chùa Báo Quốc đã đóng vai trò quan trong về mặt đào tạo Tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, Trường Sơ đẳng Phật học được mở tại chùa. Đến năm 1940, Trường Cao đẳng Phật học cũng lại được mở tại đây. Theo cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế: “Năm 1948, An Nam Phật Học Hội dời Sơn môn Phật học đường từ chùa Linh Quang về chùa Báo Quốc do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Tăng thống Giáo hội, làm giám đốc. Người tiếp nối sự nghiệp giáo dục Tăng Ni và làm trụ trì chùa Báo Quốc là Hòa thượng Thích Trí Thủ. Hòa thượng cũng là người lập ra trường Bồ Đề ở thành nội năm 1952, sau phát triển thành một hệ thống trường Bồ Đề khắp các tỉnh miền Trung và miền Nam trước năm 1975. Ngày nay chùa Báo Quốc là nơi đặt Trường Trung cấp Phật học Huế. Chùa còn giữ được Hàm Long sơn chí, một tác phẩm của Điềm Tịnh cư sĩ bằng chữ Hán ghi lại lịch sử phát triển của Phật giáo Thuận Hóa”.

3. Môn phong của Thiền sư Tế Nhơn Hữu Bùi ở đất Phương Nam

            Vào đời thứ 37, pháp phái của Tổ Tế Nhơn Hữu Bùi được hai Thiền sư Đại Quang Chí Thành và Đại Nguyệt Linh Chiếu truyền vào Phú Yên. Đến đời thứ 39, ngài Tánh Thông Giác Ngộ, một Thiền sư nổi danh chỉ ăn cây lá, mặc áo vỏ cây, cũng vào Phú Yên. Thiền sư Tánh Thông sau đó được vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị triệu về Huế để giảng pháp. Ngài có các đệ tử nổi danh như: Thiền sư Hải Hội Phổ Chất, Hải Lưu Mật Niệm, cả hai hoằng hóa tại Phú Yên; ngài Hải Lâm Bảo Kế trở lại trú trì chùa Từ Lâm Huế, nơi Tổ Liễu Quán đã thọ Tỳ kheo; Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng, Hải Chánh Bảo Thanh, Bảo Chơn đã mở địa vực hoằng hóa từ Phú Yên vô tới Phan Rang, Phan Rí, Đồng Nai, Bà Rịa, Biên Hòa. Vừa khai sơn, vừa trùng tu, các Đại sư trong pháp phái đã xây dựng hàng chục ngôi chùa ở các tỉnh trên, làm cho dòng thiền Liễu Quán hưng thịnh ở miền Nam.

            Thiền sư Đại Quang Chí Thành Huệ Chiếu từ Phú Yên vào Khánh Hòa, Bình Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương và Tây Ninh để hoằng hóa, được chứng minh qua sử liệu của chùa Hội Phước.

Chánh pháp nhãn tạng viết ngày 4 tháng 10 năm Quý Mão (1903), hiện lưu giữ tại tổ đình Hội Phước ghi như sau:

Tam Thập ngũ thế Thiên Thai Thiệt Diệu Liễu Quán Hòa thượng.

Tam thập lục thế Tế Nhơn Hữu Bùi Hòa thượng.

Tam thập thất thế Đại Quang Chí Thành Hòa thượng.

Tam thập bát thế húy Đạo Ấm Quảng Xứ Hòa thượng.

Tam thập cửu thế húy Tánh Như Phổ Tế Hòa thượng...

Long Hòa tự tứ thập thế húy Hải Hội thượng Chánh hạ Niệm Hòa thượng Phú chúc:

Lâm Tế chánh tông tứ thập nhất thế húy Thanh Minh thượng Huệ hạ Châu Đại sư.

Như vậy, Tổ Thanh Minh kế thừa chùa Hội Phước Nha Trang thuộc đời thứ 41, là đệ tử đắc pháp của Hòa thượng Hải Hội Chánh Niệm, trú trì chùa Long Hòa ở Bà Rịa.

            Căn cứ Sơ thảo lịch sử Phật giáo Bình Dương do Hòa thượng Thích Huệ Thông biên soạn và Chánh pháp nhãn tạng được lưu giữ tại tổ đình Hội Phước Nha Trang, chúng ta có thể khẳng định rằng Thiền sư Đạo Trung là đệ tử đắc pháp với Thiền sư Đại Quang Chí Thành. Dựa vào phổ hệ truyền thừa đáng tin cậy đang lưu giữ tại chùa Long Thọ Bình Dương chúng ta có thể đúc kết lại thiền phả truyền thừa của Thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu, người khai sơn chùa Linh Sơn núi Bà Đen Tây Ninh, như sau:

            Đời 35 Thiệt Diệu Liễu Quán - đời 36 Tế Nhơn Hữu Bùi - đời 37 Đại Quang Chí Thành - đời 38 Đạo Trung Thiện Hiếu - đời 39 Tánh Hiền - đời 40 Hải Thiệp - đời 41 Thanh Thọ Phước Chí - đời 42 Trừng Tùng Chơn Thoại - đời 43 Tâm Hòa Chánh Khâm - đời 44 Nguyên Cơ Giác Phú...

            Lưu ý: Năm 1744, chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát muốn tổ chức lãnh thổ Đàng Trong thành một nước ngang hàng với Đàng Ngoài của vua Lê, chúa Trịnh nên đã cải tổ hành chánh và phát động phong trào di cư vào vùng đất mới là lưu vực sông Cửu Long và sông Đồng Nai. Hòa thượng Đại Quang Chí Thành cùng một số Tăng sĩ đã dong buồm vượt biển theo dân di cư vào vùng đất Phương Nam để hoằng truyền Phật pháp. Họ đã độ được nhiều đệ tử nổi danh và cả những pháp tôn tiếp nối ngọn đèn pháp, trong số đó có Thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu, còn gọi là "Tổ Đĩa", đã khai sơn và trùng hưng 7 ngôi chùa: chùa Linh Sơn (núi Bà Đen Tây Ninh), chùa Hội Lâm (Hóc Môn), chùa Bến Chùa (Hóc Môn), chùa Long Hưng (Thủ Dầu Một), chùa Hội Khánh (Thủ Dầu Một), chùa Hội Sơn (Thủ Đức), chùa Bửu An (Bến Gỗ Biên Hòa).

Thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu được ghi nhớ là người có công hộ quốc an dân trong phong trào Nam tiến mở rộng đất đai vùng đất Bình Dương, Sông Bé, Tây Ninh. giúp dân vùng bưng đĩa canh tác nên ngài được dân chúng gọi là Tổ Đĩa. Ngày 20 tháng 12 năm Kỷ Mùi (1800), Thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu viên tịch tại chùa Hưng Long. Sau khi trà tì còn lại ngón tay trong tro tàn. Môn đồ tứ chúng lập tháp thờ ngài trong khuông viên chùa.

            Trong sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: Tăng Ngộ tên là Nguyễn Chất người huyện Phước Lộc, phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Năm 1806, Nguyễn Ngọc Ngộ phát nguyện xuất gia nhưng cha mẹ không cho, cha của ngài còn bảo: “Ta nghe nói, Đức Phật là nhất thiết hư không, không có vật gì dính ở thân mình. Con muốn bỏ trần theo Phật thì hãy xuống bếp lấy tay cầm than lửa đem lên đây cho cha hút thuốc, cha mới tin là con có chân tâm phụng Phật”. Nghe cha nói vậy, ngài xuống bếp lấy than lửa bỏ trên bàn tay mang lên, than cháy bỏng cả lòng bàn tay. Người cha cảm động, thấy ý chí mãnh liệt của con, đành phải cho con xuất gia đầu Phật.

            Ngài xuất gia ở chùa Vĩnh Quang, được ban pháp danh là Tánh Thành, dưới sự dẫn dắt của hai bậc cao tăng đương thời là Hòa thượng Đạo Huệ Huyền Quảng và Đạo Tứ Quảng Thanh. Không những tu hành hết sức tinh tấn, ngài Tánh Thành đã phát tâm làm một con đường từ Đông sang Tây dài ở trong làng bị bùn lầy, cây cối rậm rạp để người dân đi được thuận tiện, an toàn.

            Vào năm 1820, trong vùng Long An phát bệnh đậu mùa khiến nhiều người chết. Cảm thương trước đại nạn, Thiền sư Tánh Thành Viên Ngộ lập đàn cầu kinh tiêu tai, giải ách, phát khởi mật nguyện chung thân tịnh cốc (không ăn suốt đời) để cầu cho đại dịch tiêu tan, cầu cho quanh vùng được bình an, và quả nhiên linh ứng nhiệm mu.

            Đến năm Bính Ngọ (1846), Thiền sư Tánh Thành viên tịch. Người dân trong vùng cảm mến đức hạnh và công lao của ngài nên xây tháp thờ trong khuôn viên chùa Tôn Thạnh. Thiền sư Tánh Thành Viên Ngộ thuộc thiền phái Lâm Tế, chi phái Liễu Quán đời thứ 39 với phả hệ như sau: Đời thứ 35 Tổ Thiệt Diệu Liễu Quán - đời 36 Tế Nhơn Hữu Bùi - đời 37 Đại Bửu Ngọc Sâm - đời 38 Đạo Tứ Quảng Thanh - đời 39 Tánh Thành Viên Ngộ.

            Sự truyền thừa thiền phái Liễu Quán đã hòa quyện cùng với thiền phái Trúc Lâm, thiền phái Nguyên Thiều và thiền phái Chúc Thánh, tất cả đã làm cho Thiền tông Lâm Tế phát triển mạnh và lan  tỏa khắp xứ Đàng Trong, và ngày nay lan truyền ra nhiều quốc gia trên thế giới nơi có người Việt định cư sinh sống.

Tạp c Khoa học - Đại học Huế (tập 72A, số 3, năm 2012) đã có lời nhận xét: “Thiền sư Liễu Quán đã trở thành người có công trong việc đưa Phật giáo xích gần thêm với văn hóa dân tộc, đặc biệt là ở lĩnh vực tín ngưỡng dân gian, góp phần quan trọng trong việc chấn hưng Phật giáo ở thế kỷ XVIII. Sự nghiệp của ông đã có ảnh hưởng rất sâu rộng trong quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam từ đó đến nay.”

            Đạo hạnh và đạo nghiệp của các đệ tử cùng các pháp tôn trong tông môn Liễu Quán đã tỏa sáng, làm lợi ích cho nhiều thế hệ. Thiền phái Liễu Quán đã có sức sống mạnh mẽ, vững vàng không chỉ vì tôn chỉ, phương pháp thiết thực mà điều quan trọng là luôn hướng về dân tộc, đưa Phật giáo gần lại với con người Việt Nam, hòa vào văn hóa chung của dân tộc.

           

 

 

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác