Ông mập mang bao vải
ong map
Ông mập mang bao vải
Chân Hiền Tâm
Ai đi trong các phố Tàu ở
Mỹ đều thấy hình tượng một ông mập mang một bao vải. Thương nhân Trung Hoa gọi
ông là Ông-Tàu-vui-tính hay Ông-Phật-cười.
Ông sống vào thời nhà Đường.
Việc của ông là đi dọc đường phố với một bao vải lớn, trong đó chứa đầy các món
như kẹo, trái cây, bánh ngọt. Đây là quà ông cho các em thường chơi với ông.
Ông tạo ra một vườn trẻ trên hè phố.
Lúc nào gặp một thiền
nhân ông cũng xòe tay và nói: “Cho tôi một xu”.
Một lần, ông đang sửa soạn
việc-làm-chơi của mình thì một thiền khách đi ngang và hỏi:
- Thưa ông, ý nghĩa của
thiền
là gì?
Ông im lặng vất bao vải
xuống đất.
Thiền khách lại hỏi:
- Vậy hiện thực của thiền
là gì?
Ông lập tức xách bao,
mang lên vai và đi tiếp.
Người ta vẫn nói ông là
hóa thân của Bồ-tát Di Lặc. Cũng nói ông tương lai sẽ là Phật Di Lặc.
Nói sao cũng được.
Đó cũng chính là Bồ-tát
Di Lặc trong mỗi chúng sinh. Được thể hiện thành từ tâm trong mỗi người. Khi từ
tâm của ta hiện tiền, Phật Di Lặc đang có mặt.
Yếu chỉ của thiền
Ý nghĩa hay yếu chỉ của
thiền, thiền này là Tổ sư thiền, chẳng thể dùng ngôn từ mà thấu được. Trong
hành trạng của các Thiền sư, nó thường được nhắc đến với câu "Ý Tổ sư từ
Tây sang" hay "Đại ý Phật pháp". Vì ngôn từ không thấu được nên
không thể dùng ngôn từ mà diễn giải hay trả lời. Nó đòi hỏi một sự trực nhận.
Ngay đó liền nhận. Không nhận được thì thôi. Xem đối đáp của các Thiền sư thì
rõ.
Một vị Tăng đến tham vấn
Triệu Châu.
Vị Tăng hỏi:
- Thế nào là Ý Tổ sư từ
Tây sang?
Triệu Châu bước xuống
thiền sàng.
Vị Tăng hỏi:
- Còn gì nữa không?
Triệu Châu trả lời:
- Ta còn chưa nói mà.
Trong một ngữ cảnh
khác.
Thiền sư Long Nha Cư Tuần
lúc còn ở nơi Thiền sư Lâm Tế tham học, một hôm xin Thiền sư Lâm Tế chỉ dạy:
- Thế nào là ý Tổ sư từ
Tây sang?
Lâm Tế bảo:
- Đem hương bản đến đây
cho ta!
Khi Long Nha đem hương bản
đến, Lâm Tế cầm hương bản đánh Long Nha. Long Nha nói:
- Thầy đánh con không
dính dáng gì cả, nhưng thầy phải nói cho con biết thế nào là ý Tổ sư từ Tây
sang?
Lâm Tế trả lời:
- Vừa rồi, chẳng lẽ
hương bản không nói với ông sao?
Sau này, khi Long Nha đến
chỗ Thiền sư Thúy Vi tham học, lại xin chỉ dạy:
- Thế nào là ý Tổ sư từ
Tây sang?
Thúy Vi nói:
- Đem bồ đoàn đến đây
cho ta!
Long Nha đem bồ đoàn
trao cho Thúy Vi. Thúy Vi thuận tay dùng bồ đoàn đánh lên mình Long Nha. Long
Nha nói:
- Chớ vội đánh con! Thầy
chưa nói với con thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang.
Thúy Vi nói:
- Vừa rồi chẳng lẽ bồ
đoàn không nói với ông sao?
Long Nha phải trải qua mấy
năm tham cứu, cuối cùng mới hiểu rõ ý Tổ sư từ Tây sang nơi hương bản và bồ
đoàn.
Một hôm, tại thiền đường
có vị học tăng hỏi Long Nha:
- Hòa thượng lúc hành cước,
từng tham học với hai vị Đại đức Lâm Tế và Thúy Vi, đối với các ngài, Hòa thượng
có ấn tượng thế nào?
Long Nha trả lời:
- Ấn tượng rất tốt, dù không
nói với ta thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang.
- Vì sao hai lão ấy
không nói cho thầy?
Long Nha vui vẻ đáp:
- Nhờ hương bản và bồ
đoàn mà có tin tức.
Với Thiền sư Lâm Tế, khi
ông đến Đại Ngu, Đại Ngu hỏi:
- Ở chỗ nào đến?
Sư thưa:
- Ở Hoàng Bá đến.
Đại Ngu hỏi tiếp:
- Hoàng Bá có dạy lời
gì?
Lâm Tế trả lời:
- Con ba phen hỏi đại ý
Phật pháp, ba lần bị đánh. Chẳng biết con có lỗi hay không lỗi?
Đại Ngu nói:
- Bà già Hoàng Bá đã vì
ngươi chỉ chỗ tột cùng, lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi?
Ngay câu nói ấy, Sư đại
ngộ.
"Ý Tổ sư từ Tây
sang" hay "Đại ý Phật pháp" dùng để chỉ cho cội nguồn từ đó xuất
hiện các pháp. Đó là chỗ ngôn từ luận lý không đến được, nên không thể dùng lời
nói để diễn giải. Những gì có ngôn từ đều thuộc cửa phương tiện. Khi Phật đưa
cành sen lên, không có ngôn từ lý giải, mọi người đều ngơ ngác. Chỉ Ca Diếp là
trực nhận và mỉm cười. Tương tự, khi được hỏi về yếu chỉ của thiền, Ông-Phật-cười
cũng không có câu trả lời. Lời giải đáp chỉ là hành vi lấy bao tải ra khỏi vai
và đặt xuống. Như hương bản và bồ đoàn, nếu không thể ngay đó trực nhận thì
không bao giờ có câu trả lời chính xác cho vấn đề đó.
Tuy vậy...
Ở cửa phương tiện, chúng
ta có thể nhìn thấy ý nghĩa thực hành, thấy được con đường giúp ta nhận ra
ý nghĩa đích thực của thiền. Bao vải được đặt xuống khỏi lưng. Nó khiến ta liên
tưởng đến chữ “buông”, một từ khá quen thuộc trong nhà thiền.
Buông cũng có nghĩa là dừng
lại. Đừng tiếp tục gánh cái bao nặng nề đó trên vai. Nhưng bao vải đó là gì? Là
sự nghiệp, tiền bạc, con cái hay cha mẹ và gia đình? Không, đó chỉ là những hiện
tượng bên ngoài, biểu hiện phần nào cho sự ràng buộc nặng nề bên trong. Thứ mà
nhà thiền muốn bạn đặt xuống chính là nghiệp tập trong chính mỗi người. Nói dễ
hiểu hơn, đó chính là phần sở tri và phiền não đang chất đầy trong mỗi chúng
sinh. Biểu hiện qua các thứ như phân biệt, tham, sân, v.v. từ thô đến tế, từ
phân biệt đến câu sinh.
Nghiệp tập chính là Tập
đế nói trong Tứ diệu đế. Chính vì cái “Tập” đó mà chúng ta có và vướng vào những
thứ dây mơ rễ má kia. Từ đó gây tội tạo nghiệp không ít. Rồi cứ thế mà biến và
huân, huân và biến mà
thành gánh nặng ở trần gian.
Chúng ta xa lìa gia
đình, tiền bạc, v.v. để vào thiền viện tu hành, không phải là đã đặt được gánh
nặng của mình xuống. Đó chỉ là bước đầu giúp mình có điều kiện đặt gánh nặng xuống
mà thôi. Những thứ tham lam, sân hận, ngã mạn, v.v. nếu không chịu từ bỏ thì
gánh nặng vẫn y đó. Dù áo đã thay, đầu đã cạo, gánh nặng vẫn còn nguyên khối
như ban đầu. Nhưng thường, vào thiền viện rồi, chịu được giới luật và thời khóa
nghiêm khắc của thiền viện thì cũng có nghĩa là ta đã đầy lùi được ít nhiều phần
tập nghiệp của mình. Gánh nặng đã được đặt xuống ít nhiều.
Chúng ta thay đổi một
hoàn cảnh, vì lực dứt bỏ của mình trong hiện tại không đủ. Nếu đủ thì cứ y tâm
mà tu, chẳng cần loanh quanh tới lui cho đời thêm nhọc. Như Thiền sư Trúc Lâm
nói với Trần Thái Tông "Trong núi vốn không có
Phật. Phật ở tại tâm. Tâm lặng mà biết gọi là chân Phật. Nay Bệ hạ nếu ngộ tâm
này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài". Nhưng vì không đủ lực
nên chúng ta cần những duyên tốt hơn để dễ dàng với việc từ bỏ các nghiệp tập của
mình. Vì thế mà cần một chốn thanh tịnh. Cần những duyên phụ trợ từ một tập thể
thanh tịnh. Cần sự chỉ dạy trực tiếp của Thầy Tổ. Cần một thời khóa nhất định.
Không phải rời bỏ cuộc sống ngoài đời là đã xong tất cả. Chỉ mới là bước đầu
cho một hành trình rất dài. Một khi tập nghiệp của mình hết lực thì tâm ở vị
trí tâm, cảnh ở vị trí cảnh. Cảnh không hề làm nhiễu loạn tâm nên không cần
tránh cảnh. Chỉ vì tập khí còn nhiều mà cảnh trở thành nhiễu tâm. Đó là lý do
phải mượn duyên bên ngoài hỗ trợ để tiêu trừ các tập nghiệp bên trong.
Đã có lúc tôi nhìn thấy
vài người hiểu chữ “buông” này theo cách khá hời hợt. Thay vì đặt gánh nặng bên
trong xuống, họ chỉ đặt gánh nặng bên ngoài xuống. Họ thấy mình không còn dính
mắc với gia đình hay con cái nữa. Họ thấy thật khỏe khoắn khi mọi thời gian của
họ trở thành của chính họ, không phải để tu tập thiền định hay dành thời gian
cho câu niệm Phật, mà là chúi mũi vào ti-vi, điện thoại, v.v., còn lại thì đi
chu du ở các chùa và làm việc phước thiện, rồi cho đó là thiền. Mọi gánh nặng đều
được đặt hết lên vai của người phụ nữ trong gia đình - mẹ hay vợ. Con cái trở
nên bê tha vì thiếu bàn tay của một người cha. Nếu thiền dạy con người trở
thành những kẻ vô trách nhiệm như thế thì Phật Tổ có cần nhiều lời dạy bảo và
khuyên nhắc không? Hành giả tu thiền có cần phải ngồi thiền, xem kinh, đọc luận
và mất nhiều nỗ lực của bản thân cho việc tu hành thế không? Chắc không cần nhiều
như thế.
Cái đáng nói là, dưới
con mắt của những vị này, những người có trách nhiệm với gia đình và xã hội được
coi là những kẻ đang dính mắc. Cái nhìn như thế góp phần hủy tiếp một phần công
đức vốn đã rất ít của họ.
Muốn nhận được yếu chỉ của
thiền, chúng ta phải buông cho được đống tập nghiệp trong mình. Nói nôm na là
buông cho được các thói quen đời. Điển hình là dòng vọng tưởng. Đó là loại tập
nghiệp chi phối mọi hành vi của con người. Phật gọi là ý nghiệp. Lên voi, xuống
chó, lưu lạc trong sáu đường cũng chính từ đó mà ra. Nó là loại tập cần buông
nhất. Buông làm sao để cái lực của nó không còn, để có thể thấu được thực tướng
của dòng vọng tưởng. Đó mới là gánh nặng cần đặt xuống nếu muốn nhận ra yếu chỉ
của thiền.
Một khi dòng vọng tưởng
này còn tương tục, chưa hiển rõ được bản chất là vọng của nó, một niệm xấu xuất
hiện, ta liền theo niệm ấy hành xử, nói chung là ta chưa thể làm chủ được dòng
vọng tưởng của mình, thì tất cả mọi việc làm đều không ra ngoài dính mắc. Vì thế
khi chưa từng hàng phục được dòng vọng tưởng mà bạn nghĩ bạn đang tự tại là một
sai lầm khá lớn. Schopenhauer, một triết gia người Đức thuộc thế kỷ XIX, đã có
thể viết một câu khá hay: “Bề ngoài, con người hình
như có cái gì ở trước mắt thúc đẩy họ đi tới, kỳ thực họ bị thúc tới từ đằng
sau... Họ bị thúc dục bởi những
gì họ cảm thấy, bởi những bản năng mà về sự vận hành của chúng, họ không hoàn
toàn ý thức được”.
Sự thúc dục hay cái gọi là bản năng đó, chính là lực nghiệp. Chúng ta đang bị dẫn
dắt bởi nghiệp của chính mình nhưng không hề ý thức được điều đó. Vì thế nói đến
hai chữ tự tại là điều không thể có một khi chúng ta chưa hàng phục được dòng
nghiệp lực của mình. Chúng ta không dính mắc vào cái này thì dính mắc vào cái
khác. Chúng ta thấy tự do, thực sự chỉ là hình thức trá hình của một loại nghiệp
tập khác mà thôi.
Cho nên, với cái nhìn của tôi,
tăng hay tục không quan trọng. Quan trọng là có hàng phục được dòng vọng tưởng
không. Có chí hướng để hàng phục dòng vọng tưởng không. Và dù là thứ mà người
ta cho là dính mắc vào Phật sự hay trách nhiệm đối với gia đình, vẫn hơn là
dính mắc vào những thứ mang tính quy ngã thong thả vui chơi, chỉ để giải quyết
những "bận rộn" của loại tâm thức vọng động đang hiện diện nơi mỗi
người.
Hoạt dụng của thiền
Khi được hỏi yếu chỉ của
thiền là gì, Ông-Phật-cười đã im lặng và đặt bao vải xuống. Nhưng khi được hỏi
về hiện thực của thiền, tức hoạt dụng của thiền trong đời sống thường nhật là
gì, Ông-Phật-cười lại vác bao vải lên. Bao vải đó giờ trở thành phương tiện với
người đã thấu được yếu chỉ của thiền. Thỏng tay vào chợ…
Rồi cũng không có gì
thay đổi. Vẫn ăn, vẫn uống, vẫn làm việc, vẫn gánh vác. Có lẽ còn phải gánh vác
nhiều hơn gấp bội người thường. Còn phải làm cái việc mà người đời ít ai làm được.
“Chịu thay thế mọi khổ nạn cho chúng sinh
lấy đó làm pháp cúng dường”.
Bởi “trí tuệ là căn bản của thiền và từ
bi là kết quả”. Nhưng
việc gánh vác bây giờ không còn như việc gánh vác trước đây. Mọi thứ đã được
thanh lọc. Vì thế gánh vác mà không gánh vác. Gánh vác mà không vướng mắc,
không vì đó mà tạo nghiệp. Chỉ là phương tiện để mình và người cùng hướng về đạo
vô thượng. Tùy duyên tiêu nghiệp cũ. Hồn nhiên mặc áo xiêm.
Thiền sư Sessan nói: “Nơi an trụ cuối cùng của
thiền, tức mạch sống của Phật giáo, là thiền trong hoạt động, không lạc ra
ngoài sinh hoạt tự nhiên của đời sống bình thường hằng ngày. Như vậy, dù không
để ý đến ngày và đêm, chúng ta đều sống trong Phật pháp và áp dụng Phật pháp. Nếu
vậy thì cần gì phải giác ngộ và tu tập? Nhưng không phải thế, vì nước đã đun
sôi sau đó để nguội, chắc chắc phải khác nước thường, mặc dù cả hai đều nguội.
Phải có sự khác biệt giữa một phàm phu và một hành giả đã trải qua công phu tu
tập dài lâu”.
Lời chúc nguyện
Trong pháp giới này, mỗi người mỗi nghiệp. Hóa
thân của chư Phật và Bồ-tát cũng không ít. Ngay cả như Đề-bà-đạt-đa vẫn là hóa
thân của một Đại Bồ-tát. Chỉ vì pháp giới này hình thành theo duyên, Bồ-tát và
ma vương tùy duyên mà hiện tướng, nên khó mà nhận định được mọi việc chính xác
nếu tâm chưa không, cái không mà kinh Bát-nhã
đã nói. Vì thế nhìn ra là để quay vào. Lo các niệm tưởng trong chính mình. Lo
cho tròn bổn phận và trách nhiệm trong vòng nghiệp lực của mình.
Sang năm mới, chỉ mong tất
cả đều được an vui. Tâm từ, bi, hỷ, xả ngày một rộng mở để cuộc đời càng được
bình yên.
Lấy từ bản tiếng Anh ‘Happy Chinaman’, trang web Đọt chuối non.
Bạch Ẩn thiền định ca - Thiền sư Amakuki Sessan - Hạnh Huệ và Thuần Bạch dịch.
Bạch Ẩn thiền định ca - Thiền sư Amakuki Sessan - Hạnh Huệ và Thuần Bạch dịch.