Thiền Tỉnh Thức Với Vô Ngã
thien tinh thuc
THIỀN TỈNH
THỨC VỚI VÔ
NGÃ
Nguyên Giác
Thiền pháp tỉnh
thức (mindfulness meditation) đang
trở
thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực
hoạt
động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
Thiền
pháp này đang được dạy ở bệnh viện để giúp bệnh nhân giảm đau, ở
trường học để
học
sinh nhạy bén hơn, ở nhà tù để tù nhân giảm
thói
quen bạo lực, ở quân trường để chiến binh bình tỉnh
đối
phó các tình huống nguy hiểm, ở các doanh nghiệp lớn để
hiệu
năng làm việc tăng cao hơn, và ở gần như tất cả các lĩnh vực có thể
có.
Chúng ta cũng thấy tràn ngập nhiều sách tiếng Anh dạy Thiền
pháp này, cho thấy Thiền
pháp tỉnh
thức đã trở
thành một nguồn kinh doanh lớn, nơi đó dạy cách ăn chậm sao cho thưởng
thức vị ngon hơn, dạy cách nghe nhạc sao cho nghe hay hơn, dạy cách
giao tiếp với người trong gia
đình sao cho yêu
thương tha thiết hơn, dạy trong các nhà thờ sao cho dễ tiếp
nhận “ý Chúa” để vâng phục trọn lành… Thậm chí, nhiều người còn nói
rằng nhờ tu
Thiền nhà Phật, nên làm giáo
dân Đạo Chúa thuần
thành hơn, tín
tâm hơn. Thế rồi, “đạo nào cũng là đạo” và nhiều vị đã nói như thế.
Chúng ta cũng thấy rằng có nhiều môi trường không thuận
lợi để nói về Phật
giáo. Thí
dụ, một cô giáo gốc Việt khi dạy ở trường học Hoa Kỳ sẽ nhận
thấy không thể nói trực tiếp với học trò về Phật
Giáo, vì trên nguyên tắc, Hiến
Pháp tách rời nhà nước với tôn
giáo. Trong khi đó, một cô giáo da trắng có thể thoải
mái mời các học trò cảm
ơn Thượng
Đế khi bắt đầu bữa
ăn, mời các em cầu
nguyện Thượng
Đế khi đi cắm trại lạc
đường. Chỉ vì Thượng
Đế (God) được hiểu là đấng đã tạo ra vũ
trụ này, không có nhãn hiệu nhà thờ hay hội thánh nào, nhưng hiểu
ngầm là thuộc nhóm các tôn
giáo xuất
phát từ Israel.
Đó là chưa kể, khi một nhà
sư Nam
tông vào một địa phương đa
số là Phật
tử thuần
thành theo Bắc
Tông, và rồi trường
hợp một nhà
sư Bắc
Tông thăm một phương xứ có truyền
thống Nam
tông, khi có duyên được mời dạy Thiền tỉnh
thức, vị thầy nên dạy thế nào để thuận
duyên, để không gây tranh cãi hý luận?
Do vậy, câu hỏi bây giờ là: chúng
ta khi dạy Thiền
pháp tỉnh
thức, nên nói gì và dạy gì để Phật
tử thấy đây là Thiền nhà Phật, và để phân
biệt với các phương
pháp Thiền tỉnh
thức đang dạy trong nhà thờ, trong bệnh viện, trong quân trường… và
sẽ cho thấy Thiền tỉnh
thức của nhà Phật
hiệu quả hơn, và không bao giờ đi
lạc sang ngã rẽ khác của đạo khác hay đời thường? Thêm câu hỏi nữa:
khi dạy Thiền tỉnh
thức ở các môi trường cấm tôn
giáo, có cách nào để dạy Phật
pháp kiểu tàng hình?
Câu trả
lời: Trước hết, nên dạy về Lý duyên
khởi (Dependent arising, hay Dependent origination) để rồi sẽ ứng
dụng lý này vào Thiền
pháp tỉnh
thức. Không cần dạy chi
tiết, vì sẽ bị quy chụp là truyền
bá Đạo
Phật, nếu đang làm việc ở các môi trường trung
tính. Nên nói Lý duyên
khởi tóm
tắt là: "If this exists,
that exists; if this ceases to exist, that also ceases to exist" (Nếu
cái này có, thì cái kia có; nếu cái này diệt, thì cái kia cũng diệt).
Bất kỳ cái gì trong cõi này cũng đều duyên
sinh như thế. Đó là giáo
lý căn bản và cốt tủy nhất. Tất cả những gì chúng
ta nhìn thấy, nghe
được, cảm nhận được, suy
nghĩ tư lường được, đều chuyển vận trong Lý duyên
khởi. Đức
Phật dạy, ai thấy Lý duyên
khởi, tức là thấy Pháp, và đó là thấy Phật.
Không có gì lìa xa Lý duyên
khởi, không có gì tự sinh ra, không có gì tự hiện
hữu trong cõi hữu
vi này. Hiểu được lý này vững
chắc, Phật
tử sẽ không bao giờ đi
lạc sang các đạo khác, cũng không rơi vào tranh
luận tông
phái. Vì ngộ được Lý duyên
khởi, nên tin sâu vào nhân
quả; vì hiểu Lý duyên
khởi thâm
sâu, chúng
ta sẽ không còn tự than
thân trách phận hay cầu
nguyện một Đấng Thượng
Đế nào nữa hết, mà sẽ tự biết phải gìn
giữ giới
luật và tu
dưỡng phước
đức để từ từ giải nghiệp. Hiểu được Lý duyên
khởi, chúng
ta đứng vững ở Trung
luận, sẽ không nói thế
gian là Có, cũng không nói thế
gian là Không Có, không nói bất cứ gì (kể cả mình hay người) là vĩnh
cửu hay hư
vô.
Trong Tương
ưng bộ, Kinh SN12.15, bản dịch của Thầy Minh
Châu ghi lời Đức
Phật dạy về Chánh
kiến: "Này Kaccāyana, thế
giới này phần lớn y
chỉ vào hai cực
đoan này: có và không có. Này Kaccāyana, ai với chánh
trí tuệ thấy như chơn thế
giới tập
khởi, vị ấy không
chấp nhận thế
giới là không có. Này Kaccāyana, ai với chánh
trí tuệ thấy như chơn thế
giới đoạn
diệt, vị ấy không
chấp nhận thế
giới là có."
Khi tâm lìa cả Có và Không, đó là vào
thực
tướng Vô
Ngã. Đó là khi
ngôn
ngữ dứt bặt, vì nói Có, nói Không đều sai. Cũng y hệt tiếng đàn, có
chẻ cây đàn ra trăm ngàn mảnh cũng không dò ra tiếng đàn nơi đâu. Nhưng
tiếng đàn là từ cây đàn, từ mưa nắng qua nhiều năm cho gỗ rừng mọc lên, rồi
thợ rừng cưa xuống để đóng thành cây đàn, từ nhạc sĩ học nhiều thập niên để
trình
diễn, từ rất nhiều duyên mới thành tiếng đàn. Không gọi tiếng đàn là
Có, vì nó là từ nhiều duyên, vì vừa sinh đã liền diệt và vì
chúng
ta không chỉ ra được là nó ở đâu. Không gọi tiếng đàn là Không, vì đã
làm nhiều người nghe lúc vui, lúc buồn. Đó là nói
Sắc
tức thị Không, và ngược lại. Không (Emptiness) nơi đây không phải là
Hư
vô (Nihilism). Vì Không đây chính là Lý
duyên
khởi, và dẫn tới
thực
tướng vô
ngã. Học như thế,
Phật
tử sẽ tin sâu
nhân
quả, sẽ giữ mãi
Chánh
kiến, sẽ không rơi vào Có hay Không. Như thế,
Phật
tử sẽ không dám
bác
bỏ nhân
quả, cũng sẽ
không
chấp có ngã, vì
chư
hành chảy xiết, không hề có một pháp nào thực sự là có tự ngã. Đây
cũng là
tông
chỉ Thiền
Tông Việt
Nam, vì là Sắc/Không là cốt tủy của
Bát
Nhã Tâm Kinh.
Do vậy, trong bài "Vô Ngã Là Niết Bàn" Thầy Thích Thiện Siêu viết: "Quán
vô ngã thì tất cả cái gọi là: phải, trái, được, thua ở đời đều là một
cái duyên cho ta tu, hoặc trở
thành bình
thường không có gì bận tâm cả. Quán
vô ngã cũng như người võ sĩ luyện thân
thể cho rắn chắc. Khi chưa rắc chắc thì dễ bị quật ngã trước một tác
động bên ngoài. Người tu vô
ngã cũng vậy, khi chưa thuần
thục còn nhiều ngã
chấp thì dễ đau
khổ trước một lời
nói độc. Nếu khi ngã
chấp tiêu bớt, thì chỉ còn thấy đau
khổ sơ
sơ và cuối
cùng thì không còn ngã
chấp thì cũng không còn chút đau
khổ nữa."
Chỉ cần quán
vô ngã là đủ để giải
thoát. Đức
Phật dạy như thế trong Kinh Ud 7.1 trong Tiểu
Bộ. Kinh này rất ngắn, nơi đây xin phép dịch ra tiếng Việt, dựa
vào 3 bản Anh dịch của ba Thầy Sujato, Thanissaro, Ānandajoti.
“Như thế tôi nghe. Lúc đó, Đức
Phật ở gần thành Xá
Vệ, trong vườn Jeta, tu
viện Cấp
Cô Độc. Lúc đó Đại
Đức Sāriputta đang dạy, khuyến khích, sách tấn, và cổ vũ Đại
Đức Bhaddiya the Dwarf (Thầy Bhaddiya có dị
tướng lùn thấp) bằng một bài pháp. Sau khi nghe
pháp, tâm của ngài Bhaddiya được xa
lìa các lậu
hoặc bằng cách không nắm giữ bất kỳ thứ gì. Đức
Phật thấy như thế. Rồi thì, biết ý
nghĩa chuyện này, dịp đó, Đức
Phật mới đọc bài
kệ:
“Bên trên, bên dưới, khắp mọi
nơi đều giải
thoát
không chút tư lường ‘Tôi là cái này’.
Giải thoát được như thế, nhà
sư đó đã vượt lũ lụt
nơi trước đây chưa từng qua, sẽ không tái
sanh nữa.”
Bài kinh ngắn toàn văn như thế, tóm
tắt là, không thấy cái gì là “tôi” ở bất kỳ nơi nào, thế là giải
thoát. Khi dạy Thiền
pháp tỉnh
thức với cái nhìn vô
ngã như thế, có thể tin là tất cả những Phật
tử nghe
được đều sinh tâm hoan
hỷ, dù là Nam
tông hay Bắc
tông. Khi dạy Thiền
pháp tỉnh
thức trong cái nhìn không hề có cái gì là “tôi” dù trong thân hay
tâm, dù trong mắt tai mũi lưỡi thân ý, có thể tin rằng bất kỳ ai mang bộ áo
giáp “tỉnh thức vô ngã” như thế đều luôn luôn là Phật
tử thuần
thành cho dù có vào sinh
hoạt trong vô
lượng môi trường tà
kiến.
Có nhiều cách để tự thấy là vô
ngã, để đi đứng nằm ngồi đều thấy không hề có cái “tôi” nào đang đi
đứng nằm ngồi, mà chỉ thấy khối thân
tâm này là mớ thịt da gân xương đang lung linh trong cõi vô
thường chảy xiết. Hoặc là nhớ tới ẩn
dụ tiếng đàn nói trên, vốn là không có gì là “tôi” hay “người.” Hoặc
là nhớ tới ẩn
dụ chiếc cỗ xe, chỉ thấy bánh xe, mui xe, càng xe… nhưng không hề chỉ
ra cái gì là xe. Hoặc nhớ tới lời dạy của các Thiền
sư Trung Hoa là “trâu bùn qua sông” – nghĩa là, khi trâu bùn tan ra
giữa dòng, tức là không hề vướng cái “tôi” nào, thì mới qua sông được.
Hoặc là diễn
dịch bài
Kinh trên bằng cách để ghi nhớ (ở
trên, bên dưới có thể hiểu là trước
và sau), luôn luôn bao trùm toàn
thân tâm là: “Trước cái
được thấy, trước cái được nghe, trước cái được cảm
thọ, trước cái được tư lường trong thực
tướng vốn là không tôi, không người. Trong cái
được thấy, trong cái được nghe, trong cái được cảm
thọ, trong cái được tư lường trong thực
tướng vốn là không tôi, không người. Sau cái
được thấy, sau cái được nghe, sau cái được cảm
thọ, sau cái được tư lường trong thực
tướng vốn là không tôi, không người.”
Hoặc là, có thể kết
hợp với cảm
thọ về hơi
thở: Trong khi cảm nhận hơi
thở ra và vào, trước hơi
thở, trong hơi
thở và sau hơi
thở vẫn là không tôi, không người. Như thế, không hề có ai thở,
mà chỉ có hơi
thở đang được cảm
thọ hơi vào và hơi ra.
Thiền này không cần ngồi. Như ngài Bhaddiya the Dwarf trong Kinh Ud 7.1 trên,
chỉ nghe dạy là giải
thoát, vì tâm
không còn nắm giữ gì. Trong Thiền Tào
Động nhấn
mạnh vào Tọa
Thiền (Zazen), chúng
ta nên hiểu theo nghĩa của thực
tướng: trong Lý duyên
khởi, tất cả các pháp dựa
vào nhau, cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia
diệt, cũng có nghĩa là trong các duyên lung linh làm
cho một danh-sắc đang đi đứng nằm ngồi thực sự là đang ngồi trong vô
sinh, đang rỗng rang, đang trống không, tức là đi đứng nằm ngồi
cũng chính là đang ngồi bất
động trong Lý duyên
khởi.
Ai cũng có thể tập được như thế. Do vậy, các sư Tào
Động Nhật
Bản nói rằng khắp pháp
giới vẫn đang Tọa
Thiền, rằng núi xanh mây trắng đang ngồi, rằng hoa bay nước chảy đang
ngồi --- đúng là cả thế
giới đang ngồi Tọa
Thiền trong Lý duyên
khởi. Ngộ được như thế, sẽ thấy Lý duyên
khởi, còn gọi là Không, còn gọi là Tự
Tánh, sẽ thấy không hề có phương xứ trong với ngoài, không đông hay
tây hay nam hay bắc. Thiền sử ghi lại, một nhà
sư chỉ
tay vào tảng đá bên đường, hỏi một nhà
sư bạn, rằng tảng đá trong tâm hay ngoài tâm. Câu trả
lời nên là trong cái thấy của Lý duyên
khởi, không có gì gọi là trong hay ngoài, không có gì gọi là trong
tâm hay ngoài tâm, không có gì gọi là “đá tảng đang được một ai nhìn thấy”
mà chỉ có tất cả những cái được thấy đã dứt bặt ngôn
ngữ. Các pháp vốn như thế, là như thế. Đó là nghĩa của Tọa
Thiền.
Nơi đó, như Kinh Ud 7.1 nói, không dính chút tư lường “tôi là cái này hay
cái kia” thì, đó là giải
thoát. Đó chính là Thiền tỉnh
thức với vô
ngã. Là cội rễ của Phật
giáo.
THAM KHẢO: