Tinh thần Đại sư Khuông Việt trong cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam năm 1963
tinh than dai su
Lê Cung
Từ khi truyền vào nước ta, Phật giáo nhanh chóng bắt rễ sâu rộng trong quần
chúng và đã có những đóng góp to lớn đối với công cuộc phục hưng và xây dựng đất
nước. Có không ít sử liệu để khẳng định cho lập luận này, xin được dẫn một trong
những sử liệu tiêu biểu nhất: Năm 544, sau khi giành được thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, Lý Bí lên ngôi, lấy hiệu là Lý Nam Đế,
tuyên cáo dựng nước với quốc hiệu là Vạn Xuân, dựng chùa lớn đặt tên là chùa
Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc, Hà Nội). Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sự kiện
Lý Nam Đế dựng chùa Khai Quốc cho thấy “mối quan hệ giữa Phật giáo với cuộc
vận động độc lập, nói lên rằng nhà chùa thuở nọ là một trong những cơ sở quan
trọng cho tư tưởng dân tộc phát triển”[1],
còn nhà nghiên cứu Phật học Lý Khôi Việt thì khẳng định: “Ngay từ thế kỷ thứ
VI, qua các triều đại độc lập đầu tiên của dân tộc sau 600 năm lệ thuộc, Phật
giáo không những đã ở trong dân tộc mà còn là nền tảng tâm linh và tinh thần của
dân tộc”[2].
Rõ ràng là trên cả hai bình diện cả lý luận và thực tiễn, có thể khẳng định rằng
từ đây Phật giáo đã trở thành mạch sống của dân tộc.
Với những nét “chấm phá” trên đây giúp chúng ta hiểu được tại sao ngay
khi đất nước bước vào kỷ nguyên tự chủ, các triều Đinh, Tiền Lê đều trọng dụng
các nhà sư trong trọng trách “hộ quốc, an dân”, tiêu biểu là Đại sư
Khuông Việt, một trong hai ngôi sao sáng chói[3]
trên bầu trời Đại Cồ Việt ở thế kỷ thứ X. Bài viết này giới thiệu khái quát về
công án Đại sư Khuông Việt và sự hiện thực hóa tinh thần Đại sư Khuông Việt
trong cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam năm 1963.
Đại sư Khuông Việt, thế danh là Ngô Chân Lưu (933 - 1011),
một người tài đức lỗi lạc, thông bác chữ nghĩa, lãnh đạo phong trào truyền bá
Chánh pháp. Việc Đại sư được Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng thống đã nói rõ
công án của ngài đối với Phật giáo. Về công án của Đại sư Ngô Chân Lưu, cần phải
lưu tâm đến bài kệ nói về “Phật tính” và “sự thị hiện Phật tính”
mà ngài đã trao truyền cho các đệ tử trước lúc viên tịch:
Mộc trung nguyên hữu hỏa
Nguyên hỏa, hỏa hoàn sanh
Nhược vị mộc vô hỏa
Toản toại hà do manh?
(Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lửa mới sinh
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát sao lại ra?)
Nhớ lại lời dạy Đức Thế Tôn: “Mỗi chúng sinh đều có Phật tính”. Nhưng để
“Phật tính thị hiện”, cũng theo lời dạy của Đức Thế Tôn thì: “Hãy tự
mình thắp đuốc lên mà đi”. Phật ví “Phật tính” như một tấm gương
trong sáng, nếu không thường xuyên chăm sóc, lau chùi thì bụi mờ vô minh sẽ che
lấp. Điều này được hiểu là để “Phật tính” xuất hiện, tức là đạt được minh
tâm, kiến tánh đi đến bến bờ giác ngộ, đòi hỏi mỗi chúng sinh phải không ngừng
nỗ lực rèn luyện, tu tập. Có thế, chính mình cùng chúng sinh mới đóng góp, xây
dựng quốc gia thái bình, xã hội an lạc, phồn vinh và phú cường.
Là một nhà sư đạt đến “ngôi vị” Tăng thống, hơn ai hết, Ngô Chân Lưu nhận
chân giá trị siêu việt lời dạy của Đức Thích Ca Mâu Ni. Vì vậy, trước lúc thị
tịch, Ngô Chân Lưu đã xuất ngôn với bài kệ trên đây, được xem như là một thông
điệp, nhắc nhở Tăng chúng vượt lên chính mình, biết dứt bỏ những cám dỗ danh
lợi, vật chất tầm thường mà nỗ lực tu tập, rèn luyện để đạt được “Phật tính”
ngay trong cõi ta-bà này, góp phần tích cực vào việc “hộ quốc, an dân”.
Cao hơn nữa, Đại sư Khuông Việt đã gắn bó cuộc đời mình trong việc giúp triều
Đinh và triều Tiền Lê trên cả hai lãnh vực nội trị và ngoại giao nhằm phục hưng
đất nước sau hơn 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc thống trị. Sách Thiền
uyển tập anh viết: “Năm bốn mươi tuổi, danh tiếng vang dội triều đình.
Vua Đinh Tiên Hoàng mời về kinh đô (Hoa Lư) hỏi chuyện. Sư đối đáp hợp ý, được
vua phong chức Tăng thống. Năm thứ 2 niên hiệu Thái Bình (971), sư được ban hiệu
là Khuông Việt Đại sư”[4].
Tư liệu này cho thấy Ngô Chân Lưu đã phò giúp Đinh Tiên Hoàng những kế sách nhằm
giữ vững sơn hà xã tắc. Có vậy, thiền sư mới được vua ban hiệu là Khuông Việt,
tức là “khuông phò, giúp đỡ nước Việt”. Theo Lê Mạnh Thát: “Với một
tước phong như thế, rõ ràng Đại sư phải có những cống hiến to lớn đối với sự
nghiệp đế vương của Đinh Tiên Hoàng”[5].
Điều này không có gì cần phải bàn thêm bởi Ngô Chân Lưu được ban hiệu Khuông
Việt Đại sư cùng một lần với những người có công lớn như Định quốc công Nguyễn
Bậc, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn cùng những người phò tá Đinh Tiên Hoàng dẹp
được loạn “Thập nhị sứ quân”, thống nhất đất nước.
Về vai trò của Đại sư Khuông Việt đối với nhà Tiền Lê, sách Thiền uyển tập
anh viết: “Dưới triều vua Lê Đại Hành, sư đặc biệt được vua kính trọng,
phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều được tham dự”[6].
Khi biết quân Tống do Hầu Nhân Bảo cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta, vua Lê
Đại Hành đã nhờ thiền sư cầu nguyện ở chùa Vệ Linh (tức chùa Sóc, huyện Sóc Sơn,
Hà Nội ngày nay). Hành động này là đòn binh pháp về mặt tư tưởng, cốt để quân sĩ
giữ vững ý chí cho cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước sắp diễn ra. Sách Thiền
uyển tập anh viết: “Năm Thiên Phúc thứ nhất (981), quân Tống sang xâm
lược nước ta. Trước đó, vua đã biết chuyện này, bèn sai (Ngô Chân Lưu - TG chú
thích) đến cầu đảo xin thần phù hộ. Quân giặc kinh sợ lui về giữ sông Hữu Ninh.
Đến đây, bọn chúng lại thấy gió to nổi lên ùn ùn, giao long nhảy tung mặt nước,
quân giặc sợ hãi tan chạy”.
Trên mặt trận ngoại giao, Đại sư Khuông Việt nổi tiếng với bài Ngọc lang quy
tiễn sứ Tống là Lý Giác về nước mà về sau Lê Qúy Đôn đã hết lời ca ngợi:
“Nước ta từ khi gây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc. Bài Từ vua Tiền Lê
tiễn Lý Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà, có thể vốc được...”[8].
Tiếp nối tinh thần Đại sư Khuông Việt, trong thời kỳ mà cả dân tộc quật khởi, vì
sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975), hàng hàng lớp
lớp Tăng Ni, Phật tử Việt Nam đã vượt qua mọi thử thách, kể cả hy sinh chính bản
thân mình, để cùng với nhân dân cả nước đạt được mục tiêu đề ra. Nổi bật nhất
trong sự hiện thực hóa tinh thần Đại sư Khuông Việt ở thời kỳ này là cuộc vận
động của Phật giáo Việt Nam năm 1963.
Ngay khi Ngô Đình Diệm được các thế lực ngoại bang đưa về đứng đầu “Quốc gia
Việt Nam” với chủ thuyết “Cần lao nhân vị” do Ngô Đình Nhu chủ xướng,
bằng “cái nhìn Phật tính”, giới lãnh đạo Phật giáo đã chỉ ra rằng:
“Dưới chế độ Diệm cuộc sống sẽ trở nên hiểm nghèo hơn so với bất cứ thời gian
nào dưới thời Pháp. Chúng ta chắc chắn phải trải qua những ngày tháng khó khăn
hơn”[9].
Đúng như giới lãnh đạo Phật giáo đã nhận định, liền sau khi nắm lấy chính quyền,
Ngô Đình Diệm đã thi hành nhiều chính sách gian manh, lắm biện pháp tàn bạo. Đối
với Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách kỳ thị hết sức
khốc liệt, nhằm cố đẩy lùi phong trào cách mạng Việt Nam. Chỉ riêng “Quốc
sách ấp chiến lược” của chính quyền Ngô Đình Diệm, giới lãnh đạo Phật giáo
xem như là “những chiếc nơm sắt, lớn và chắc, chụp xuống tất cả tư tưởng,
nhất là tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam”[10].
Hệ thống chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm “là một cuộc tấn công Phật
giáo Việt Nam một cách quy mô, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực tư tưởng -
chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa - giáo dục”[11].
Trên thực tế, chính quyền Ngô Đình Diệm “có nhiều cố gắng theo hướng
‘Công giáo hóa’ nhân dân ta, biến Thiên Chúa giáo thành quốc giáo ở miền Nam”[12].
Đỉnh điểm của chính sách kỳ thị Phật giáo là khi chính quyền Ngô Đình Diệm ban
hành Công điện 9195 ngày 6-5-1963,
ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo thế giới vào dịp Đại lễ Phật đản năm 1963 (PL.
2507). Lập tức, chính quyền Ngô Đình Diệm vấp phải sự phản đối quyết liệt của
Phật giáo Việt Nam. Trước hết, tại Huế, chiều ngày 7-5-1963, quần chúng, tín đồ
Phật giáo bao vây tỉnh tòa với khí thế: “Phố phường như bừng dậy trong một
cuộc động quân. Khắp các đường phố, từ trong thành, Đông Ba, Gia Hội từng đoàn
người lũ lượt kéo qua cầu Trường Tiền. Từ Vĩ Dạ lên, ở trên Ga xuống, phía Kho
Rèn,
An Cựu về, dân thị xã và phụ cận đổ xô về phía tỉnh đường đông nghịt cả người,
đông một cách đáng sợ, như cuồng phong tới, như bão tố lên”[13].
Bất chấp sự đàn áp dã man của chính quyền Ngô Đình Diệm, cuộc vận động của Phật
giáo Việt Nam từ Huế lan vào Sài Gòn và rộng ra khắp cả nước. Tăng Ni, Phật tử
cả nước đã lấy “Phật tính” để đối trị chế độ gia đình trị, giáo trị Ngô
Đình Diệm, tiêu biểu nhất là ngọn lửa Hòa thượng Thích Quảng Đức đốt lên giữa
đường phố Sài Gòn (11-6-1963) với tâm nguyện:
“Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói thơm cảnh tỉnh bao người ác
Tro trắng phẳng san hố bất bình
Thân cháy nát tan ra tro trắng
Thần thức nương về giúp sinh linh
Hỡi ai mộng ảo đang còn mộng
Hãy gấp tỉnh đi kẻo giật mình”[14].
Hòa thượng Thích Quảng Đức đã hành động đúng theo hạnh nguyện Bồ-tát:
“Bể khổ lấp bằng là đại nguyện.
Từ bi bao quản mọi hy sinh”[15].
Với sự hy sinh cao cả của Thích Quảng Đức, “uy thế của Mỹ - Diệm bị một cú
đánh tinh thần mạnh như trời giáng”[16].
Trên thực tế, ngọn lửa Thích Quảng Đức đã tạo ra một bước ngoặt hết sức quan
trọng. Nó đã chuyển cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam năm 1963 sang một thế
mới, trên cả hai bình diện quốc nội và quốc tế.
Ở trong nước, “cái chết vô uý của Hòa thượng Thích Quảng Đức là một hồi
chuông cảnh tỉnh cho mọi người, một tiếng gọi đàn cho hàng tứ chúng”[17],
được xem như là một lời kêu gọi khẩn thiết đối với tất cả những ai có lương
tri hãy đứng lên đấu tranh chống lại chế độ độc tài gia đình trị, giáo trị Ngô
Đình Diệm. Ngày 12-6-1963, giới lãnh đạo cao cấp của Phật giáo từ Huế vào Sài
Gòn trực tiếp lãnh đạo cuộc vận động tại đây. Cũng trong ngày này, tại vùng giải
phóng, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã long
trọng tổ chức lễ truy điệu Hòa thượng Thích Quảng Đức. Xã luận báo Nhân Dân số
ra ngày 13-6-1963 viết: “Gương hy sinh anh dũng của Hòa thượng Thích Quảng
Đức là một sự tố cáo, lên án trước dư luận toàn thế giới chế độ độc tài cực kỳ
tàn bạo của bọn Mỹ - Diệm. Chế độ ấy phải bị đánh đổ. Mười bốn triệu đồng bào
miền Nam quyết đánh đổ chế độ ấy”[18].
Báo chí miền Bắc đăng tin chi tiết và hình ảnh về cuộc tự thiêu và cho đây là
“sự hy sinh gan dạ của Hòa thượng Thích Quảng Đức để chống chính sách của tập
đoàn Ngô Đình Diệm đàn áp tự do tín ngưỡng”[19].
Về sau nhìn lại cuộc tự thiêu của Thích Quảng Đức, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng[20]
viết: “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tôn vinh Hòa thượng Thích Quảng
Đức, mặc dù trong tuyên bố nói rõ Mặt trận không cổ vũ cho hình thức tự thiêu,
song quyết định của Hòa thượng mang ý nghĩa rộng lớn hơn một sự hy sinh bình
thường. Ý nghĩa rộng lớn ấy nằm ở chỗ Hòa thượng Thích Quảng Đức không chỉ ‘Vị
Pháp thiêu thân’ mà là ‘Vị quốc thiêu thân’. Trong trường hợp này, Hòa thượng
Thích Quảng Đức là một anh hùng”[21].
Chính ở đây “cái tinh tuý của đạo Phật được phát huy, được luân lý dân tộc
chấp nhận,… là hun đúc của lịch sử, là tinh hoa của Phật giáo, với tầm cỡ thế
giới… ”[22].
Trên bình diện quốc tế, “bằng hành động cao quý, Hòa thượng Thích Quảng Đức,
đại biểu cho Phật giáo Việt Nam, đã làm rung chuyển không những cả dân tộc mà cả
thế giới”[23].
Đây là “một hành động tiêu biểu vĩ đại. Nó không chỉ chống lại Diệm, để chỉ
sự hiện hữu của Phật giáo và được để ý tới, mà nó còn có ý nghĩa chống lại sự
bất công, bất chính của toàn thế giới… Với một hành động lặng thinh, không nói
một lời, một vị Hòa thượng Việt Nam đã nêu một tấm gương sáng rùng rợn, một
kháng nghị cao đẹp, lộng lẫy, chống lại mọi xấu xa đê hèn của loài quỷ sứ đang
còn tồn tại trong thế giới ngày nay”[24].
Về dư luận của thế giới trước việc Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, chúng ta
có thể hình dung qua đoạn tư liệu mà Malcoln W. Brown đã cung cấp trong “The
New Face of War”: “Vụ Phật giáo năm 1963 đã làm chấn động các quốc gia
ngoài châu Á kể từ khi xảy ra vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức: Hoa
Kỳ, Pháp, Anh, Thuỵ Sĩ, Bỉ, Úc, Đức… Tấm hình tự thiêu của Hòa thượng đã được
phổ biến khắp thế giới, từ trên bàn giấy của Tổng thống Hoa Kỳ tới văn phòng các
lãnh tụ Trung Quốc và chính nước cộng sản này đã cho in ra hàng triệu tấm hình
ấy để phân phát đi khắp Á Phi với lời ghi chú: Một Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam tự
thiêu trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ - Diệm”[25].
Cuộc hy sinh phi thường của Thích Quảng Đức vượt qua cả trăm nghìn lời tố cáo
hoặc kêu gọi, có sức thúc đẩy quần chúng tiến lên bất chấp bạo quyền. Giáo sư
Trần Văn Giàu viết: “Kết tinh trong một vị chân tu những nỗi căm hờn đối với
chế độ độc tài cá nhân gia đình trị, vô nhân đạo và bạo ngược, hành động dũng
cảm của Hòa thượng Thích Quảng Đức là một bản án không gì bôi được đối với chế
độ bù nhìn của Mỹ ở Sài Gòn, đồng thời là một lời kêu gọi đồng bào Phật tử đấu
tranh chống phát-xít, dù chết không chịu lùi bước. Thật không phải thường có
những cái chết kích động nhân tâm sâu sắc và rộng rãi như cái chết của Hòa
thượng Thích Quảng Đức”[26].
Ngày 16-6-1963, ngày dự định đưa tang Thích Quảng Đức, mặc dù được thông báo
hoãn lại đến ngày 20-6-1963 sau khi Thông cáo chung được ký kết giữa giới lãnh
đạo Phật giáo và chính quyền Ngô Đình Diệm, bất chấp sự phong tỏa từ các trục
đường trong thành phố, từ 5 giờ sáng, 700.000 người đã tấp nập đổ về chùa Xá Lợi
(Sài Gòn), nơi đặt thi hài Thích Quảng Đức, “ngoài thanh niên ra, hầu hết
những người đến dự đều là đàn bà. Họ trẻ, khá hấp dẫn và duyên dáng trong bộ áo
dài và quần trắng, hoặc cả bà già nhăn nheo, răng nhuộm đen vì ăn trầu. Tất cả
đều đính băng nhỏ màu vàng ở ngực, một biểu tượng thương tiếc Hòa thượng Thích
Quảng Đức”. “Quần chúng hòa vào nhau như những giọt nước trong đại dương
và trong tình yêu người ta tự thấy mình lớn lên và không còn sợ hãi nữa”[27].
“Đây là cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt nhất ở Sài Gòn trong mấy năm nay.
Nó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ độc tài phát xít Mỹ
- Diệm, đẩy chúng vào tình thế bị cô lập hơn bao giờ hết”[28].
Điều này dẫn đến một miền Nam, không chỉ nông thôn, rừng núi mà “cả trong
thành thị cũng dấy lên những làn sóng cách mạng quyết liệt, làm rối loạn hậu
phương của địch, làm lung tận gốc chế độ bù nhìn”[29].
Để cứu nguy cho chế độ, đêm 20 rạng ngày 21-8-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm
cho tiến hành “Kế hoạch nước lũ”, tấn công đồng loạt hầu hết các ngôi
chùa được dùng làm trụ sở đấu tranh của Phật giáo trên khắp miền Nam. Hầu hết
giới lãnh đạo Phật giáo, giáo sư và sinh viên tham gia đấu tranh đã bị bắt đưa
vào trại giam. Với việc tấn công chùa, chế độ gia đình trị, giáo trị Ngô Đình
Diệm đã “thực sự dẫm trúng võ chuối do Phật giáo quăng ra”[30]
và đã chọn cho mình một tuyệt lộ.
Những ngày sau “Kế hoạch nước lũ”, cả thành phố Sài Gòn rung động trước
sự phát triển dữ dội của cuộc vận động. Nhiều bộ trưởng, khoa trưởng, giáo sư
đại học từ chức. Sinh viên, học sinh bãi khóa, nghỉ học đấu tranh cho tự do tín
ngưỡng. Tình hình này khiến sự chần chừ, do dự của Mỹ về việc thủ tiêu chính
quyền Ngô Đình Diệm đã được vượt qua. Sau khi nhận nhiệm sở thay Frederik
Nolting, Cabodge Lodge, tân đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, đã tiếp xúc với Ngô Đình Diệm
và Lodge đã phúc trình với Washington rằng Ngô Đình Diệm có lẽ đã mất khả năng
lãnh đạo đất nước và kết luận rằng trừ trường hợp vợ chồng Ngô Đình Nhu rời khỏi
xứ, Diệm có thể coi như là hết thuốc chữa. Ngày 24-8-1963, Thứ trưởng Ngoại giao
George Ball, Xử lý Thường vụ Bộ trưởng Ngoại giao ký gởi cho Lodge điện văn với
nội dung: “Rõ ràng Nhu đã tiếm quyền. Hãy cho Diệm cơ hội gạt Nhu và bè nhóm
ra một bên. Nếu đã cố gắng hết cách mà Diệm vẫn khăng khăng chối từ thì chúng ta
đành phải đối đầu với khả thể là Diệm cũng không cứu được”[31].
Bản án tử hình chính quyền Ngô Đình Diệm đã trong gang tấc, thời điểm thi hành
là ngày 1-11-1963. Rõ ràng là “trước sự lớn mạnh và thế tiến công cách mạng,
đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi tay sai, phế bỏ Ngô Đình Diệm hòng để cải thiện
tình hình chính trị và quân sự để cứu vãn thất bại”[32].
Trong bối cảnh miền Nam dưới sự thống trị của chế độ Ngô Đình Diệm, “một chế
độ mà kẻ thù của nhân dân đinh ninh rằng không một lực lượng nào dưới quyền
thống trị của chúng dám đã động đến”[33],
thì “cú hích” năm 1963, xóa bỏ chế độ độc tài gia đình trị, giáo trị Ngô
Đình Diệm được xem như là một bước ngoặt có tầm vóc to lớn, mở ra một lỗ hỏng
được đột phá rất to cho mọi giai tầng xã hội ở các đô thị miền Nam luồn qua, để
cùng với nhân dân cả nước đánh đổ từng bộ phận, tiến lên đánh đổ hoàn toàn chính
sách xâm lăng của Mỹ và chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm. Tình hình chính
trường và chiến trường miền Nam sau chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ đã minh
chứng cho nhận định này. Đúng như Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Sau sự
sụp đổ của Diệm, chiến tranh cách mạng đã phát triển lên một bước mới”[34].
Trong hơn ba thập kỷ trở lại đây, với nhiều hội thảo khoa học cấp quốc gia và
quốc tế, cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam năm 1963 tiếp tục được phân tích,
đánh giá dựa trên những nguồn tư liệu mới phát hiện, với sự khẳng định rằng:
“Trong thực tế, ý nghĩa của phong trào này còn vượt xa hơn, trong đó vấn đề nổi
trội nhất chính là ở chỗ phong trào bước đầu góp phần làm phá sản chính sách can
thiệp của Mỹ ở Việt Nam, tạo đà cho phong trào cách mạng miền Nam đi đến thắng
lợi trọn vẹn cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975”[35].
Điều này giúp chúng ta hiểu được vì sao dấu ấn của cuộc vận động của Phật
giáo Việt Nam năm 1963 trong lịch sử dân tộc là hết sức đậm nét. Ngay khi phong
trào vừa kết thúc, “Báo cáo về tôn giáo” của Ủy ban Trung ương Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Đại hội Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam lần thứ II ngày 01-01-1964 viết: “Trong phong trào chung
của các tôn giáo chống chế độ phát-xít tàn bạo của Mỹ - Diệm và đòi tự do dân
chủ, tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, phong trào đấu tranh của đồng bào
theo đạo Phật vừa qua đã ghi đậm nét trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân miền Nam”[36].
Tóm lại, từ Triều Đinh, Triều Tiền Lê với Đại sư Khuông Việt đến cuộc vận động
của Phật giáo Việt Nam năm 1963, với hình tượng nổi bật là Bồ-tát Thích Quảng
Đức, Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp “hộ quốc, an dân”, tuy được thể
hiện khác nhau, âu đó chính là cái cốt tủy của tinh thần “khế lý khế cơ”,
“tùy thời tùy quốc độ” của Phật giáo, song điều khẳng định là Phật giáo
Việt Nam dù trong hoàn cảnh nào vẫn đi cùng với dân tộc, vì dân tộc mà xiển
dương Chánh pháp.