Bảy phương pháp diệt
khổ trong kinh Nhất thiết lậu hoặc
Thích
Nguyên Ngộ
Khái niệm lậu
hoặc
Lậu
hoặc là âm Hán
dịch của từ āsrava
trong tiếng Sanskrit (P.
āsava). Āsava xuất nguyên từ ā (đến, từ) + ngữ căn su
nghĩa là “chảy ra”. Lậu có nghĩa là chảy nhỏ giọt, hoặc là nhơ
uế, mê lầm. Văn
học Phật giáo thường xuyên sử dụng danh từ này để chỉ những phiền não nhiễm
ô không ngừng tuôn chảy trong tâm trí của chúng sinh. Lậu hoặc bao gồm tham,
sân, si, tà kiến, v.v., những nguyên nhân
làm
khởi sinh luân
hồi sinh
tử.
Có nhiều cách
phân chia
lậu hoặc khác nhau.
Theo Thắng pháp (Abhidhammapiṭaka), phần Āsavagocchaka, có bốn lậu
hoặc: dục
lậu (kāmāsava), hữu lậu (bhavāsava), kiến lậu (diṭṭhāsava)
và vô minh lậu (avijjāsava).
Kinh
Niết-bàn quyển 20, kinh Tăng
nhất
A-hàm
quyển 34, kinh Trung A-hàm quyển 2, Thành
thật
luận
quyển 10, Đại
thừa
nghĩa
chương
quyển 5, Niết-bàn
kinh
sớ
quyển 21, đều nêu
ra bảy
lậu hoặc (七漏):
kiến lậu (见漏),
tu lậu (修漏),
căn lậu (根漏),
ác lậu (恶漏),
thân cận lậu (亲近漏),
thọ
lậu (受漏)
và niệm
lậu (念漏).
Kinh
Tương ưng
đề cập ba lậu hoặc: “Này Hiền giả, có ba ô nhiễm này:
dục
ô nhiễm, hữu ô nhiễm, vô minh ô nhiễm. Này Hiền giả, đây là ba ô nhiễm”.
(Tayo
me, āvuso, āsavā. Kāmāsavo, bhavāsavo, avijjāsavo
-
ime kho, āvuso, tayo āsavā’ti”).
Dục ô
nhiễm (kāmāsavo),
hữu ô nhiễm (bhavāsavo), vô minh ô nhiễm (avijjāsavo) là ba
pháp được đề cập trong kinh Ô
nhiễm.
Kinh Tăng
chi
bộ,
tập II, phân chia
năm loại lậu hoặc: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc sai biệt?
Này các Tỷ-kheo, có các lậu hoặc đưa đến địa ngục, có các lậu hoặc đưa đến
bàng sanh, có các lậu hoặc đưa đến ngạ quỷ, có các lậu hoặc đưa đến thế giới
loài người, có các lậu hoặc đưa đến thế giới chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là các lậu hoặc sai biệt”.
Theo đoạn
trích này,
các lậu hoặc có
khả năng
đưa chúng sinh
đến các cõi giới như địa ngục (naraka),
bàng sanh (tiryagyoni),
ngạ quỷ (preta),
loài người (manusya),
chư thiên (deva).
Bảy pháp đoạn
trừ khổ đau
trong kinh Nhất thiết lậu hoặc
Kinh
Nhất thiết lậu
hoặc
(Sabbāsavasutta, Trung
bộ)
nói đến
bảy phương pháp giúp đoạn trừ phiền não khổ đau.
Bản
kinh
nói rằng,
với như
lý
tác ý (yoniso
manasikāra),
các lậu hoặc chưa sinh
không được sinh,
các lậu hoặc đã sinh
sẽ được đoạn trừ:“Này
các Tỷ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu
hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được
đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu
hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ diệt được
đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.”.
- Tri kiến đoạn trừ.
Khi có
một phiền não, lậu hoặc nào khởi lên trong tâm, có thể dùng tri kiến để đoạn
trừ. Tri kiến ở đây được hiểu là chánh tri kiến, thấy rõ được vô thường,
Tứ
đế, vô ngã, nhận biết
các
pháp một cách chân thật đúng đắn như nó là. Khi tâm khởi lên các pháp bất
thiện như tham, dùng tri kiến để thấy biết nó là pháp tham, nguyên nhân sinh
khởi của nó, không bị nó lôi kéo, xúi giục,
để
từ đó thấy rõ những tác động của nó đến thân và tâm.
Đức Phật dạy
phải như lý tác ý để trừ diệt khổ đau.
Hành giả cần tác ý
về
Tứ
đế, tức là tác ý
về khổ, nguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt khổ, và con đường đưa đến đoạn
diệt khổ. Nhờ
tác ý chơn chánh như
vậy,
ba kiết sử là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ
được đoạn trừ.
Như vậy những pháp nào thuộc
ác pháp
như tham, sân, si, ngã mạn, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, v.v. chúng
ta
không nên tác ý, hướng tâm; mà chỉ tác ý đến những pháp thiện, pháp đoạn trừ
tham, sân, si...
Trong Tích
truyện Pháp cú có kể câu chuyện về thanh niên Cittahattha.
Vị này đến tịnh
xá xin thức ăn và nghĩ rằng dù có lao động cũng không được thức ăn ngon,
trong khi ở đây có thức ăn ngon, do
đó anh
ta quyết định xuất gia.
Nhưng
sau khi xuất gia, được đầy đủ vật thực, anh
ta
lại chán đời
sống xuất gia và hoàn tục. Và Cittahattha xuất gia, hoàn tục đến bảy lần.
Nhưng
lần cuối cùng khi thấy vợ nằm ngủ với những bất hảo tướng hiện lên,
Cittahattha nhận ra sự vô thường và đau khổ, sau đó tu tập nghiêm
mật và chứng đắc
A-la-hán. Qua câu chuyện trên chúng ta thấy được những khổ đau, phiền não do
ta hiểu sai, do cách nhìn chưa đúng đắn nên nghĩ khổ là vui, thấy uế là tịnh
và rồi
say sưa trong ngũ dục lạc.
- Phòng
hộ để đoạn trừ lậu hoặc.
Kinh
Nhất thiết lậu hoặc dạy: “Ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, sống
phòng hộ với sự phòng hộ con mắt. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không
phòng hộ với sự phòng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể
khởi lên. Nếu sống phòng hộ với sự phòng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và
nhiệt não ấy không còn nữa. Vị ấy như lý giác sát, sống phòng hộ với sự
phòng hộ lỗ tai... (như trên)... sống phòng hộ với sự phòng hộ lỗi mũi...
(như trên)... sống phòng hộ với sự phòng hộ lưỡi... (như trên)... sống như
lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ thân căn... (như trên)... sống như lý
giác sát phòng hộ với sự phòng hộ ý căn. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy
sống không phòng hộ với sự phòng hộ ý căn, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não
ấy có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ ý căn, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc
phải do phòng hộ được đoạn trừ.”.
Khi sáu căn
tiếp xúc với sáu trần thì ba độc khởi lên trong tâm, đưa đến sự phát sinh
dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Vì thế, có những phiền não cần phải có sự
phòng hộ, phải có sự cảnh giác, chánh kiến mới có thể đoạn trừ. Ví dụ như
khi có một lời nói hay hành động của người khác
lôi kéo
ta theo tham dục, nếu không đủ tỉnh táo, khả năng phòng hộ ta sẽ bị dắt dẫn
theo con đường ác đó.
Trong
kinh Lăng
nghiêm
nói:
“Sáu thứ mắt tai mũi lưỡi thân ý làm mai mối cho giặc, cướp hết gia bảo
của ông. Do đây từ vô thủy, thế giới chúng sinh sinh ra ràng buộc, không thể
vượt khỏi sự vật thế gian”.
- Thọ
dụng để đoạn trừ lậu hoặc.
Trong kinh Phật
dạy: “Này
các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo như lý giác sát, thọ dụng y phục chỉ để che đậy
sự trần truồng, ngăn ngừa lạnh, nóng, xúc chạm của các loài côn trùng. Vị ấy
như lý giác sát, thọ dụng món ăn khất thực không phải để vui đùa, đam mê,
trang sức, hay tự làm đẹp mình. Chỉ là để thân này được dài lâu, để thân này
khỏi bị hại thương, để hỗ trợ phạm hạnh...”.
Với
Đức
Phật, sự thọ dụng chỉ là mục đích hỗ trợ cho sự tu tập, duy trì sắc thân chứ
không phải hưởng thụ vị ngon,
để có
khoái cảm trong
ăn uống. Nhờ có sự thọ dụng này mà thân thể được bảo toàn, trí lực được minh
mẫn để
tu tập. Nhưng việc
thọ dụng
phải chân
chánh: "Này các Tỷ-kheo, những lậu hoặc tàn hại và nhiệt não nào có thể
khởi lên do không chơn chánh thọ dụng, giờ đây, nhờ chơn chánh thọ dụng như
vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn khởi lên nữa".
Nếu thọ dụng không chơn
chánh, thọ dụng với sự thõa mãn của thân, của tâm, thọ dụng với sự ngã mạn,
thọ dụng với sự ái luyến sẽ đưa đến lậu hoặc và khổ đau.
- Kham
nhẫn để đoạn trừ lậu hoặc.
Bản
kinh ghi: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do kham nhẫn
được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, kham nhẫn
lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời,
các loài bò sát; kham nhẫn những cách nói mạ lỵ, phỉ báng. Vị ấy có tánh
kham nhẫn các cảm thọ về thân, những cảm thọ thống khổ khốc liệt, đau nhói,
nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người. Này các
Tỷ-kheo, nếu vị ấy không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não có thể khởi lên. Nếu vị ấy kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và
nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu
hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ”.
Kham nhẫn chịu
đựng nóng, lạnh, đói, khát, mạ lỵ,
hãm hại… sẽ giúp
những bất thiện pháp không khởi lên trong tâm, những ác pháp không có khả
năng thâm nhập vào. Nhờ kham nhẫn
những điều trên
với tri kiến
chân chánh, hành
giả sẽ
đoạn trừ được phiền não khổ đau, tránh đi những phiền toái ảnh hưởng đến
việc tu tập.
Đoạn
trừ lậu hoặc nhờ
tránh né.
Phật dạy: “Như
lý giác sát tránh né voi dữ, tránh né ngựa dữ, tránh né bò dữ, tránh né chó
dữ, rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước nhớp, vũng nước. Những
chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên lai vãng nếu đến,
những bạn bè ác độc nếu giao du mà bị các vị đồng phạm hạnh có trí nghi ngờ,
khinh thường, vị ấy như lý giác sát tránh né chỗ ngồi không xứng đáng ấy,
trú xứ không nên lai vãng ấy và các bạn độc ác ấy”.
Tránh né ở đây là tránh
xa những pháp bất thiện có thể ảnh hưởng không tốt đến thân và tâm. Và có
những lậu hoặc phải
nhờ
sự tránh né mới có thể đoạn trừ. Ví dụ như sự
nguy hiểm của thú dữ, những điều nguy hiểm đến thân, tổn hại đến thân,
việc
giáo du với bạn xấu, v.v., tất cả những điều này cần tránh né để không
phải chịu khổ đau.
Còn đối với
tâm, những điều
nào nếu
không thể dùng
phòng
hộ, tri kiến để
đoạn trừ
thì phải sử dụng
phương pháp
tránh né
để
đoạn trừ lậu hoặc.