Phương thức hoằng pháp của thiền sư Minh Châu Hương Hải
phuong thuc hoang phap
PHƯƠNG THỨC HOẰNG PHÁP CỦA THIỀN SƯ MINH CHÂU HƯƠNG HẢI
Thích
Trí Phước
Tóm tắt: Thiền sư Minh Châu Hương Hải, hay Thiền
sư Hương Hải (1628 - 1715) là một trong những bậc
long tượng chốn già lam, vị danh Tăng nối truyền mạng mạch Phật pháp. Thiền sư Minh Châu Hương Hải
có công trong việc phục hưng Phật giáo
Trúc Lâm Yên Tử, tạo ra bước ngoặt cho Phật giáo Việt Nam thế kỷ XVII.
Thiền sư Hương Hải, với hoài
bão truyền đăng tục diệm và phụng sự nhân sinh, đã nỗ
lực xây dựng nền Phật giáo mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Bài viết này tìm hiểu về phương thức hoằng
pháp của Thiền sư Minh Châu Hương Hải nhằm góp phần làm
sáng rõ bức tranh về những cống hiến lớn lao của Thiền sư.
Từ khóa: phương thức hoằng
pháp, Thiền sư Minh Châu Hương Hải, Phật giáo Việt Nam thế kỷ XVII.
NỘI DUNG
1. Tiếp biến tư tưởng thiền Lâm
Tế, Tào Động và kế thừa Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử để Việt hóa hình thức tu học
Thiền sư Hương Hải dù thuộc thiền phái Lâm Tế dòng Trí Bảng Đột Không
nhưng đã kế thừa và tiếp biến
phương pháp hành trì và tư tưởng của tông Lâm Tế và Tào Động để hoằng pháp và khôi phục Phật giáo Trúc Lâm Yên
Tử. Đây là lý do tại sao thiền Việt Nam nói chung, thiền mà
Hương Hải thực hành nói riêng luôn mang sắc thái đặc trưng, riêng biệt, không bị
ảnh hưởng nhiều thiền Trung Quốc.(1)
Cụ thể, đối chiếu hành trạng Thiền sư Hương Hải với phần sơ lược về thiền
phái Lâm Tế và Tào Động trong sách Thiền
học Việt Nam của Thích Phước Đạt (Thích Phước Đạt, 2022, tr.259-273), người viết đưa ra nhận định, Thiền
sư kế thừa năm hình thái và chủ
trương của Tào Động, trong đó nổi bật là hình thái Thiên trung Chí với tinh thần
nhập thế tích cực; mặt khác, Thiền
sư loại bỏ một số yếu tố của tông Lâm
Tế như: bổng (đánh), hiểu biết
trên văn tự không có giá trị trong Tứ liệu giản, chiếu dụng là phương thức tiếp
đãi qua động tác đánh (hét) đối với người tham thiền, xem nhẹ việc nghiên tầm học
hỏi trong tam huyền tam yếu.
Trên cơ sở ấy, Thiền sư Hương Hải kế thừa phương thức hoằng pháp của
Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử là kết hợp cả Thiền - Tịnh - Mật trong sự nghiệp hoằng
pháp.
Trong thực tế, rất hiếm tài liệu về việc Thiền sư Hương Hải khôi phục thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Vì thế, người viết căn cứ vào hành trạng và
những tác phẩm của ngài hiện còn trên văn bản để làm rõ tinh thần tiếp biến
này nói riêng, những hoạt động hoằng pháp của Thiền sư Hương Hải nói chung.
Cụ thể, khi còn ở Đàng Trong, Thiền sư trì
chú bắt ấn, hai lần lập đàn 7 ngày 7 đêm tụng kinh trì chú hóa giải bệnh và tiếp đến ở Đàng Ngoài 17 năm
chuyên tâm tu ngày ba thời Chuẩn Đề,
điều này
cho thấy Thiền sư Hương Hải có tu theo pháp Chuẩn Đề của Mật tông.
Khi Thiền
sư còn tu hành ở đảo Tiêm Bút
La, trong thực hành thiền định
không đề cập về cách đánh, hét và không sử dụng thiền ngữ của dòng Lâm Tế Trung
Hoa mà chủ yếu dùng phương pháp thiền Phật
giáo Việt Nam, đó là thiền mà vẫn “không loại bỏ việc học và tụng niệm các kinh
điển Phật giáo” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.67).
Việc lập ra “Thiền Tĩnh Viện” đem lại thành
công lớn là quy tụ được nhiều giai tầng trong xã hội lúc bấy giờ, tạo nên một
trung tâm Phật giáo lớn nhất Đàng Trong có sức ảnh hưởng ra cả nước.
Tư tưởng dung hòa Tịnh Độ tông và Thiền
tông của Thiền sư Hương Hải còn dựa
trên việc Thiền sư chú giải
kinh. Cụ thể, Giải Kim cương kinh lý nghĩa có nói: “Lời Vĩnh Minh
rằng một pháp Bát-nhã này làm chủ trong chư thiện pháp” (Lê Mạnh Thát, 2000:
188), tức là Thiền sư có nghiên cứu về ngài Vĩnh Minh Diên Thọ - chủ
trương xóa kiến chấp sai lầm như cuồng Thiền, Tịnh độ thì xem thường và phủ nhận
lợi ích của Thiền. Trong Sự lý dung thông có câu: “Chuyển vô minh, bối trần hiệp giác/ Vui về bề diệu
dược Liên bang.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.396).
Với cách nhìn nhận
cõi Cực lạc (Liên bang) là phương thuốc diệu kỳ, Thiền sư đã dịch
giải nhiều kinh về Tịnh độ, gồm: Giải Di Đà kinh, Giải Vô lượng thọ kinh, Giải
quán Vô lượng thọ kinh quốc ngữ và Soạn khoa cúng Cửu phẩm. Điều này cho thấy Thiền sư Hương Hải còn xiển dương pháp môn Tịnh
độ. Ngài không dừng lại ở đó mà còn chuyển tư tưởng Tịnh độ ấy theo hướng Việt
hóa như “đạo tràng ở chùa Nguyệt Đường… có dựng một đài Cửu phẩm Liên Hoa có thể
xoay được theo mô hình Tam tổ Huyền Quang đã dựng ở chùa Côn Sơn Kiếp Bạc trước
đó vài trăm năm” (Thích Phước Đạt và Thích Hạnh Tuệ, 2021, tr.262). Đối chiếu
hai dữ liệu trên, suy ra Soạn
khoa cúng Cửu phẩm được soạn theo tư tưởng Tổ thứ ba của thiền phái Trúc
Lâm, đồng nghĩa tư tưởng Tịnh độ ấy được Việt hóa theo tư tưởng Trúc Lâm nhà Trần.
Trong thực tế, pháp môn Tịnh độ gần gũi,
không phân biệt giai cấp, lãnh thổ, địa vị, già trẻ đều có cơ hội thoát vòng sanh tử, lại dễ tu dễ chứng, thích hợp mọi hoàn cảnh.
Pháp môn này tương đồng với bản
sắc văn hóa Việt như “thương
người như thể thương thân” và “lá lành đùm lá rách”. Kết hợp những điều trên, Thiền
sư tiếp biến pháp môn tịnh độ mang đậm bản sắc người Việt trên con đường hoằng pháp của mình.
Như vậy, giai đoạn từ 1667 đến 1682,
trước khi Thiền sư Hương Hải bị chúa Nguyễn hiểu lầm, nền Phật giáo Trúc Lâm được Thiền sư khôi phục và phát triển hưng thịnh ở Đàng Trong. Sau đó, Thiền sư Hương Hải ra Bắc thì Phật giáo
Đàng Trong chuyển hướng tiếp biến tư tưởng “Cư trần lạc đạo” thành tư tưởng “Cư
Nho mộ Thích”, nghĩa là điều hành đất
nước, tổ chức cuộc sống, ăn ở theo Nho giáo nhưng tâm linh thì theo Phật giáo, như văn
bia Ngự kiến thiên mụ tự của Nguyễn Phúc Chu có nói lên tinh thần này (Phan Thạnh, 2019,
tr.960, 963-964).
2. Dung hợp Nho - Phật - Lão và sử dụng chữ Nôm
Điểm nổi bật trong phương thức hoằng pháp của Thiền
sư Hương Hải là dung hợp Nho
- Phật - Lão, trong đó Phật giáo là chủ đạo. Đây cũng chính là tinh thần nhập thế tích cực của
các nhà sư thời Trần, thời kỳ Phật giáo phát triển cực thịnh nhưng không loại trừ Nho, Lão mà xem Nho,
Lão là phương tiện để hoằng truyền Phật giáo.
Tinh thần dung hợp Nho - Phật - Lão của Thiền sư thể hiện rõ rệt khi ngài ở Đàng Ngoài. Là người xuất thân từ Nho học, xuất gia khi đã hiểu
rõ thế sự nên Thiền sư Hương
Hải nhập thế với chủ trương “Tam giáo
nhất thể”, trong đó xem “Nho giáo
không bằng Phật giáo và như một phương
tiện bộ phận để truyền bá Phật giáo” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.62). Điều này, một mặt thể hiện
tư tưởng của Hương Hải
phóng khoáng, không rập khuôn
và thấu hiểu thời cuộc, mặt khác còn
cho thấy đây là tư tưởng xuyên suốt “trước sau như một của những người Phật
giáo Việt Nam từ Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Đạo Cao, Lý Thánh Tông, Trần Thái
Tông, Nguyễn Trung Ngạn… cho đến những người sống sau Hương Hải như Ngô Thời
Nhiệm, Toàn Nhật” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.62). Vì vậy, trên bước đường
hành đạo, Thiền sư tùy thuận vẽ bản đồ, tiếp xúc với các vua, chúa, quan, dân… Dù được sự kính phục hay bị
hiểu nhầm, nghi kỵ, Thiền sư đều xem như nhân duyên
để hành đạo.
Dung hợp Phật - Đạo - Nho và sáng tạo chữ Nôm cũng là đặc trưng khác biệt của
Phật giáo Việt Nam: “Phật
giáo Việt Nam tổng hợp chặt chẽ với Nho và Đạo; kết hợp chặt chẽ đạo và đời; sử
dụng chữ Hán sáng tạo thành chữ Nôm; tiếp biến Nho giáo Trung Hoa thành Nho
giáo Việt Nam đậm truyền thống yêu nước” (Trần Ngọc Thêm, 1996, tr.489, 519, 524). Thiền sư Hương Hải cũng tiếp nối tinh thần ấy: “Máy càn khôn một bầu thế giới/ Vốn chưa từng thành hoại hư không/ Rừng
Nho bể Thích dung thông/ Linh đài vằng vặc, vừng hồng sáng thanh.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.401-402).
Theo Hương Hải, cho dù ở bất cứ đâu, sống
trong Nho, hay là trong biển Phật pháp thì giác tánh thanh tịnh sáng suốt luôn
hiện hữu, bởi vì pháp giới rộng lớn này vẫn vậy, không hề đổi thay. Tư tưởng
này trước đó cũng được bắt gặp ở Trần Thái Tông, “Người chưa hiểu chia bừa thành
tam giáo, kẻ rõ rồi cùng ngộ một chữ tâm” (Lê Mạnh Thát, 2004, tr.353).
Hương Hải nhận thấy cốt tủy của Nho, Phật, Lão là
những cách thức để con người đi đến sự an lạc, hạnh phúc và giải thoát, vì vậy
cho dù tên gọi có khác, nhưng diệu dụng
thì cùng một: “Trong nơi danh giáo
có ba/ Nho hay giúp nước sửa nhà trị dân/ Đạo thì dưỡng khí an thần/ Thuốc trừ
tà bệnh chuyên cần luyện đan/ Thích độ nhân miễn tam đồ khổ/ Thoát cửu huyền thất
tổ siêu phương/ Nho dùng tam cương ngũ thường/ Đạo gìn ngũ khí giữ giàng ba
nguyên/ Thích giáo nhân tam quy ngũ giới/ Thể một đường xe phải dùng ba.”
(Lê Mạnh Thát, 2000, tr.391-392).
Hương Hải cũng kế thừa và phát triển tư tưởng của Trần Thái Tông: “Nho điển thi nhân bố đức/ Đạo kinh ái vật
hiếu sinh/ Phật duy giới sát thị trì/ Nhữ ý tuân hành vật phạm.” (Viện Văn học,
1998, tr.93). Dù là thi ân bố
đức (Nho), yêu vật thương sinh (Đạo), giữ giới không sát sinh (Phật), thì tất cả đều đưa con người bước lên con đường đạo đức.
Bên cạnh đó,
Hương Hải còn kế thừa quan điểm
trong bài tựa Thiền tông chỉ nam của Trần Thái Tông, thể hiện mối tương quan Phật - Nho - Lão: “Ba giáo xưa nay cùng một thể/ Theo
thời sao lẽ có nghiêng bên…/ Nguồn Nho bát ngát lên thêm rộng/ Biển Phật mênh mông xuống sâu lần.” (Lê Mạnh
Thát, 2000, tr.125).
Dù vậy, Hương Hải vẫn khẳng định Nho (và Lão) đều
là phương tiện phụng sự cho Phật, và đó là lý do dù được đào tạo tinh thông Nho
học, đã ra quan trường, Hương Hải vẫn từ bỏ để xuất gia theo Phật-đà: “Luận chưng thánh tổ Nho gia;/Trong đời trị thế người là nhân sư/ Sao bằng Đâu Suất vị cư/ Lão quân tiên chủ
đại từ dược phương/ Phật là vạn pháp trung vương/ Làm thầy ba cõi đạo trường
nhân thiên.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.392-393).
Đến đây cho thấy
rõ Phật giáo luôn dung hòa, không bác bỏ hay đối kháng với Nho, Lão. Phật giáo
biết đặt Nho, Lão ở một vị trí thích hợp, bổ túc những khiếm khuyết, làm phương
tiện hoằng pháp hữu hiệu đem đến một đạo Phật toàn diện về cả hai mặt xuất thế và
nhập thế. Đó là một Nho giáo đưa ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức giúp an
bang trị thế, sắp xếp một xã hội thái bình; và một đạo Phật đem đến niềm vui hạnh
phúc tuyệt đối ngay bên trong mỗi người.
Lê Mạnh Thát nhận
định: “Quan điểm của Minh Châu Hương Hải về quan hệ Nho - Phật không phải là
quan điểm mới lạ vào thời ông. Nó đã xuất hiện và được thử thách qua lịch sử.”
(Lê Mạnh Thát, 2000, tr.67). Chính vì
thế, tinh thần dung hợp tam giáo được Thiền sư Hương Hải kế thừa đã thể hiện được
hình thức tu học và sinh hoạt Thiền theo tinh thần Việt.
3. Tinh thần nhập thế tích cực
Thiền sư Minh Châu - Hương Hải kế
thừa và phát huy chủ trương “đem đạo Phật vào trong đời” theo tư tưởng của các Thiền
sư thời nhà Trần là tinh thần nhập thế tích cực. Ngài tận dụng tinh hoa ấy rất
thành công trong công cuộc hoằng pháp của mình với nhiều hình thức.
Trước hết, muốn
nhập thế thì phải tu, được nhắc đến trong giai thoại vua Lê Bảo Thái hỏi đạo và
Thiền sư dạy rằng: Phản văn tự kỷ mỗi thường quan/ Thẩm sát tư duy tử tế khan/ Mạc giáo mộng
trung tầm tri thức/ Tương lai diện thượng đỗ sư nhan.” (Thích Đồng Bổn, 2014,
tr.582).
Nghĩa là, phải quán xét chính mình trong từng
sát-na, không được xem thường và chớ rong ruổi trong trần cảnh, về sau sẽ thấy
ngọc quý ngay mình. Tuy rằng, theo Lê Mạnh Thát, bài thơ trên không phải của Thiền
sư Hương Hải, nhưng xét kỹ về hành trạng của Thiền sư thì ngài đã sống đúng với
tinh thần chỉ dạy ấy: “Ngài thường chủ trương vô tâm và tùy thuận nối theo dòng
tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ đời Trần” (Lê Văn Siêu, 2013, tr.231).
Theo Hương Hải, sau khi tu tập thành tựu
mới có thể tùy duyên nhập thế
độ sinh. Vì vậy, Thiền sư
Hương Hải tu hành ở đảo đạt chứng đắc sau rồi khi đủ duyên
mới tùy thuận vào đất liền độ sinh: “Bể
từ rạt sạch nguồn mê/ Máy thiêng mở khép đề huề độ sinh.” (Lê Mạnh Thát, 2000,
tr.395).
Với Thiền sư Hương Hải, chỉ biển trí
tuệ, từ bi mới tẩy sạch bể khổ chúng sinh. Cho nên, khi vào được biển ấy rồi thì thỏa sức sử dụng phương tiện
cứu khổ ban vui. “Phật rằng hết thảy chư
pháp đều cũng dùng sự tu hành cho được thành chính đẳng chính giác. Thiền gia dầu
bỏ, ắt lỗi ý kinh, khác nào chưa đến ngạn mà đã bỏ thuyền. Há mình chẳng chìm
trong nơi khổ hải. Hết thảy chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay chẳng khỏi pháp
tính tam muội. Dầu khi mặc áo, ăn cơm, đàm thuyết đối đãi lục căn, thường hành
nhậm vận thi vi, thật những là pháp tính diệu dụng. Chẳng biết phản bản hoàn
nguyên, vậy bèn tùy danh chấp tướng, tình mê vọng khởi, tạo chủng chủng nghiệp.
Dầu hay biết được nhất niệm hồi quang, liễu phàm tâm, chứng được thánh tâm,
chuyển thế pháp đều nên Phật pháp.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.247-248).
Thiền sư Hương Hải
đã thể hiện rất rõ quan điểm
của mình là, tu hành không chỉ
tụng kinh trì chú hay hành thiền mà phải biết hòa nhập vào cuộc sống hàng ngày
như đi đứng nằm ngồi, uống ăn ngủ nghỉ, tất cả mọi sinh hoạt đều phải biết mượn
chúng để hiển tánh. “Dầu người hằng thanh tịnh, chẳng còn cầu ngoài, nhậm vận
tùy duyên, một pháp chẳng có chỗ được, khi đi đứng nằm ngồi, cùng hợp lẽ đạo,
thật gọi là trang nghiêm tịnh độ… Tại thế tính hằng ly thế. Cư trần, lòng vốn
viễn trần, ắt rằng thật là cứu cánh pháp.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.221, 228).
Tương tự, “Mặc dầu vân thủy nước mây/ Đầu đà thượng hạnh làm thầy
độ sinh/ Đạo viên minh ngại chi chân tục/ Miễn lòng rồi tri túc thì nên/ Năm
mươi lăm phẩm dưới trên/ Luyện tam muội hỏa chí bền kim cương.” (Lê Mạnh Thát,
2000, tr.398-399).
Tinh thần tùy
duyên tùy tục được Thiền sư tùy thuận hóa độ, tùy theo hoàn cảnh lúc bấy giờ mà
có pháp tu thích hợp. Ngài chọn tu khổ hạnh tiết chế trong sinh hoạt hàng ngày,
sống biết đủ và không chấp nhặt, luôn quán chiếu thế gian để thuận theo nhằm mục
đích điều phục tâm, tích cực đi vào đời và làm gương cho tín đồ noi theo.
Đối với Thiền sư Hương Hải, tùy duyên tùy tục cũng nhằm nhập thế tích cực hướng theo bản
sắc Việt, mà cụ thể là dùng đạo để
đi vào đời: “Dốc làm chí cả trượng phu/ Đạo nên trung hiếu, ân thù vẹn
hai/ Trong khi khó nhọc mựa nài/ Sức dùng hà dám Như Lai viên thành.” (Lê Mạnh
Thát, 2000, tr.404).
Theo Thiền sư, bậc
đại nhân ngoài việc thực hành tu tập hướng đến giác ngộ giải thoát, điều tuyên
quyết cần phải có là hiếu và trung, tức hiếu kính với cha mẹ, tận trung với đất
nước.
Thiền sư Minh
Châu Hương Hải xả được tự kỷ, sống thiểu dục tri túc, hướng đến cứu độ chúng sinh với tâm hạnh Bồ-tát. “Bồ Tát chẳng vì tự kỷ, cầu khoái lạc.
Bèn vì cứu hộ chư chúng sinh, phải cầm kiệm chưng nơi mình, cho người được xa xỉ,
lợi ích hết thảy chúng sinh, bèn hợp tam luân thể không, vậy mới phải như thị bố
thí.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.235-236).
Theo Thiền sư Hương Hải, để hoằng pháp cần các cấp độ phương tiện từ thấp đến cao
như sau: “Bồ-tát là quyền độ chúng sinh, hằng bố thí pháp, dầu còn chấp trước,
có chỗ mong cầu, bằng người vào trong nhà tối, muôn vật ắt chẳng chỗ thấy. Dầu
có giáo hóa chúng sinh, chúng sinh khôn hay biết đường thấy tính. Dầu Bồ-tát liễu
đạt pháp không, lòng chẳng chấp trước, hằng bố thí pháp, chẳng chỗ mong cầu, bằng
người có nhãn mục, ở nơi tuệ nhật sáng soi, thấy chủng chủng sắc, bèn chẳng chấp
tướng. Dầu có giáo hóa chúng sinh, tùy căn thuyết pháp, tự lợi, lợi tha, khai
kim cương nhãn, nhiên bát-nhã đăng, mở bảo chúng sinh biết lòng thấy tính. Vậy
mới phải Bồ-tát đạo nhãn.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.237).
Thiền sư chọn
pháp thí là hạnh thù thắng trong bố thí - đây là hạnh đầu tiên thuộc sáu hạnh
tu của Bồ-tát, với bốn cấp độ bố thí dành cho các căn cơ từ thấp đến cao, nhằm hướng đến tu tập đạt đến giải
thoát rốt ráo. Theo Thiền sư Hương Hải, hoằng pháp với tinh thần Bồ-tát cần phát hạnh nguyện: “Phát nguyện là
trong kinh giáo dạy khiến hạnh nguyện cụ túc hòa hay. Tuy có công hạnh mà chẳng
có chí nguyện thì hạnh ắt chẳng định. Dầu có chí nguyện mà chẳng có công hạnh,
nguyện ắt hư vong vậy. Phải nên hạnh nguyện tương ưng hài hòa, bèn hợp chẳng lỗi
mới nên phát nguyện vậy.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.185).
Thiền sư Minh
Châu Hương Hải thuộc truyền thừa phái Tào Khê của Lục tổ Huệ Năng, chuyên tu đốn ngộ: “Hãy nhìn sáu Tổ năm
tôn/ Thiền hà muôn phái một dòng Tào Khê.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.395), nhưng
vẫn kết hợp tu tập tiệm giáo theo xu
hướng tùy thuận chúng sinh mà dùng
phương pháp thích hợp hóa độ:
“Ấy lời khuyên dặn người thiền tử/ Lý hiểu tường sự giữ tiệm tu/ Hằng rèn giới
hạnh công phu/ Lên đường tinh tấn nhẫn phù yên tâm/Ngày càng chuyển nhập chuyển
thâm/ Nguồn nhân bể quả chớ lầm tóc tơ.” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.403-404).
Theo Thiền sư Hương Hải, để hoằng pháp trước hết cần tu tập giác ngộ, sau đó đưa ra phương tiện độ sinh. Vì vậy, trên con đường hoằng pháp, thiền giáo được song hành. Có nghĩa là vừa kết hợp
thiền, vừa kết hợp cả tụng kinh và dịch giải kinh sách: “Trong lịch sử Thiền tông Trung Quốc
hầu như không bao giờ gặp một vị Tổ nào vừa là Thiền sư vừa là dịch giả” (Lê Mạnh
Thát, 2000, tr.67). Tuy nhiên, Đại Việt có các Thiền sư vừa tu thiền vừa dịch
giải trước tác như vua Trần Thái Tông công phu tỏ lý Thiền và viết chỗ ngộ với
tên Thiền tông chỉ nam; Phật hoàng Trần Nhân Tông đã dịch giảng các
kinh, luật, luận sang chữ Nôm cùng sáng tác Cư trần lạc đạo phú và Đắc
thú lâm tuyền thành đạo ca; Nhị tổ Pháp Loa với việc luận giảng nhiều kinh
cùng hình thức tổ chức Giáo hội thành công; và tác phẩm Vịnh Vân Yên tự
phú của ngài Huyền Quang.
Thiền sư Hương Hải cũng tiếp nối tinh thần trên trong sự nghiệp hoằng pháp. Ngài đã dùng thiền giáo song hành: “Thiền gia
dầu bỏ, ắt lỗi ý kinh. Khác nào chưa đến ngạn mà đã bỏ thuyền, há mình chẳng
chìm trong nơi khổ hải?” (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.247-248).
Từ đó, nơi bối cảnh
xã hội thế kỷ XVII, dân tình khổ sở, tri thức và căn cơ thấp, Sư đã chọn dịch
giải các kinh điển sang chữ Nôm và trước tác thơ văn bằng tiếng Việt, nhằm giúp
số đông quần chúng có thể gần gũi, dễ tiếp cận giáo lý Phật-đà, bởi lời văn của
Thiền sư rất dễ hiểu, không dùng những từ hoa mỹ, hay chuyên môn trong Phật
giáo, mà dùng những từ rất bình dị.
Bên cạnh đó, kết
hợp với ngôn ngữ tiếng Việt, đặc biệt sử dụng chữ Nôm - thể hiện hình thức tu học
thuần Việt, mượn chữ Trung Quốc Việt hóa thành chữ Việt, đặc biệt người Trung
Hoa không hiểu kiểu chữ này. Đây là bước bức phá mới thể hiện tinh thần dân tộc
luôn hướng đến độc lập tự chủ. Và Sư kế thừa rõ nhất với cách dịch giải trước
tác của Sơ tổ Trúc Lâm và học Nhị tổ Pháp Loa cách tổ chức Giáo hội. Ngoài ra, sự
bổ túc lẫn nhau của hai tư tưởng là Đốn ngộ Tiệm tu và Thiền giáo song hành đã thể
hiện rõ tính chất Việt hóa trong chúng.
Theo Lê Mạnh
Thát: “Những người cầm bút Phật giáo Việt Nam có những cách dùng từ và giải
thích từ không hoàn toàn đồng nhất với Phật giáo Trung Quốc” (Phan Thạnh, 2019,
tr.963), mà mang tinh thần Việt hóa cao.
4. Đào tạo Tăng tài
Sau sự kiện chúa Nguyễn nghi ngờ, Thiền sư cùng 50 vị
đệ tử ra Bắc. Họ là những vị vừa có đức vừa có tài. Những đệ tử của ngài là những tăng sĩ tinh ba, tiếp tục
sự nghiệp của Thiền sư Hương Hải hoằng truyền Chánh pháp, phổ độ quần sanh. Trong số họ có thể kể đến Thiền sư Như Đức ở chùa
Lân Động, huyện Đông Triều, nay là Quảng Ninh, là vị giới luật tinh nghiêm, gần
xa đều kính mộ. Thiền
sư Như Đức thể hiện thần thông qua cách chữa bệnh, giải nghiệp cho dân, cho đến
chiêu cảm các loài vật trong việc cúng thí thức ăn trong ngày giỗ tổ Điều ngự Giác
Hoàng (Nguyễn Khắc Thuần, 2009, tr.307-308).
Theo Lê Mạnh Thát, căn cứ vào bài kệ truyền thừa của dòng Trí Bảng
Đột Không, chữ “Chân” có 70 vị như Chân Lý Hiển Mật, Chân Tạng Mật Hạnh, Chân
Chiếu Hoa Mỹ, Chân Tông Quảng Trí, Chân Quý Phổ Ứng, Chân Truyền Quang Tán,
Chân Tịch Phổ Hạnh, Chân Thành Bồ Đề, Chân Thường, Chân Cảnh, Chân Thước, Chân
Ý, Chân Thị, Chân Thuần, Chân Đẳng, Chân Bình, Chân Pháp, Chân Quản, Chân Trí,
Chân Bảo, Chân Thưởng, Chân Đông, Chân Dung, Chân Quả, Chân Viên, Chân Kinh,
Chân Tịnh, Chân Quang…; chữ “Như” có Tăng thống Như Nguyệt Hoa Quang, Như Tông,
Như Túc, Như Khoản, Như Nhật, Như Đài, Như Bảo, Như Sơn, Như Thừa, Như Cống, Như
Thiên, Như Hiền, Như Nhẫn, tăng thống Như Toàn, Như Biện, Như Đề, Như Viên, Như
Kiên, Như Phái, Như Mật, Như Cảnh, Như Hải, Như Khanh, Như Nghiệm; chữ “Tính” có
Tăng thống Tính Thanh, Tính Liễn, Tính Kế Đạm Hạnh, Tính Khả, Tính Lâm, Tính Duệ,
Tính Thước, Tính Tường, Tính Mẫn, Tính Nhu, Tính Định, Tính Mỗ, Tính Ánh, Tính
Trác, Tính Đức, Tính Trí, Tính Lãng, Tính Năng, Tính Tiếp, Tính Phụng, Tính
Xán, Tính Tuyên, Tính Hằng thuộc chữ “Tính”; chữ “Hải” có Tăng phó Hải Bồi, Tăng
phó Hải Triều, Hải Đường, Hải Nhã, Hải Đồng, Hải Diên, Hải Lịch, Hải Khoát, Hải
Liên, Hải Trung... (Lê Mạnh Thát, 2000, tr.21).
Tất cả những vị trên
đều thuộc thế hệ truyền thừa của Thiền sư Hương Hải lúc ở Bắc. Trong đó, đại diện
cho hàng long tượng Phật giáo có Như Nguyệt Hoa Quang. Kế thừa địa hạt sáng tác
có Tăng chính Như Sơn, người sáng tác bộ Ngự chế thiền điển thống yếu kế
đăng lục. In lại sử sách có Tính Lãng với Thánh đăng ngữ lục, với lời tựa do
Tính Quảng Điều Điều viết… Chiếu Kiên thì góp vào in Giải
tâm kinh ngũ chỉ năm 1834 (Minh Mạng thứ 14). (Lê Mạnh
Thát, 2000, tr.22).
Tại Đàng Trong, khi Thiền sư Hương Hải không còn ở
đó, nhưng mạch ngầm của thiền phái này vẫn chảy tiếp tục ở phía Nam này: “Vào
cuối thế kỷ XVII, tại vùng đất Đồng Tháp, đã sớm hình thành một ngôi chùa do Tăng
sĩ từ miền Trung vào dựng nên. Đó là một tu sĩ của phái Lâm Tế, cầu đạo với một
Thiền sư thuộc thế hệ truyền thừa đời thứ 32, có thể là Khoáng Viên Bổn Quả, hoặc
Minh Châu Hương Hải. Khả năng cầu đạo với thiền phái Trúc Lâm có nhiều khả năng
diễn ra hơn trên thực tế vì nội dung bài vị(2) khá độc đáo và đặc biệt
của Thiền sư Tánh Nhẫn, cần thiết không ghi rõ hành trạng của mình.” (Trần Hồng
Liên, 2003, tr.135).
Lời
kết
Đặc thù của Thiền
học Việt Nam là tính dung hòa giữa các hệ tư tưởng với nhau như Thiền và Tịnh, đốn
và tiệm, Nho - Phật - Đạo, hòa vào tín ngưỡng dân gian để hướng đến nhập thế, đặc
biệt tư tưởng Nho giáo phục vụ cho việc quản lý đất nước và là công cụ hữu dụng
trong các hoạt động đi vào đời hoằng pháp. Từ đó tạo nên giá trị đặc trưng cho
Phật giáo Việt Nam.
Minh Châu Hương
Hải là vị Thiền sư đầy nhiệt huyết
với thời đại, con người, và ôm ấp hoài bão lớn đối với đạo pháp dân tộc. Những
cống hiến của Thiền sư thể hiện rõ nét qua hành trạng và sự nghiệp ngài. Cụ thể,
những sự kiện trong những tài liệu hiện còn đến nay, cùng với nội dung trong
các tác phẩm của ngài, đã bộc tả rõ quá trình kế thừa và phục hưng thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử. Ở đó vận dụng và kết hợp các tư tưởng tam giáo, Thiền - Tịnh,
đốn ngộ tiệm tu, Thiền giáo song hành của các bậc tiền nhân đi trước trong Phật
giáo Việt Nam theo hướng Việt hóa và định hướng về thiền định. Đặc biệt, Thiền sư
đưa ra cụ thể những phương pháp tu tập được trích trong giáo lý của Phật-đà. Cho đến nay, các phương thức hoằng pháp của tThiền sư Minh Châu Hương Hải vẫn còn có giá
trị đối với hàng hậu học trên con đường hoằng truyền Chánh pháp và làm lợi lạc quần sinh.
CHÚ THÍCH
(1) Lê Mạnh Thát trong công trình nghiên cứu về Hương Hải cũng khẳng
định điều này. (Lê Mạnh
Thát, 2000, tr.67).
(2) Ghi rằng: “Tế
thượng chánh tông, tam thập tam thế, húy Tánh Nhẫn, thượng Thiện hạ Châu, đường
thượng Tổ sư, giác linh chi vị” (Tổ trụ trì tên húy là Tánh Nhẫn, pháp danh Thiện
Châu, thuộc dòng Tế thượng chánh tông đời thứ 33). (Trần Hồng Liên, 2003, tr.129).
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1.
Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Minh Châu
Hương Hải, NXB.Tổng Hợp, TP.Hồ Chí Minh.
2.
Lê Mạnh Thát (2004), Toàn Tập Trần Thái
Tông, NXB.Tổng Hợp, TP.Hồ Chí Minh.
3.
Lê Văn Siêu (2013), Việt Nam Văn minh sử
cương - văn minh đời Hồng Đức đến đời Nguyễn, NXB.Thanh Niên, TP.Hồ Chí
Minh.
4.
Nguyễn Khắc Thuần (Bản dịch, hiệu đính và chú
thích) (2009), Lê Quý Đôn tuyển tập - tập 5: Kiến Văn Tiểu Lục
- phần 2, NXB.Giáo Dục Việt Nam, TP.Hồ Chí Minh.
5.
Nguyễn Lang (2012), Việt Nam Phật giáo sử
Lluận, NXB.Phương Đông, TP.Hồ Chí Minh.
6.
Nguyễn Minh Quý (2005), “Thân thế và sự nghiệp
Hương Hải Thiền sư qua tấm bia Tổ sư bi ký”, trong Thông báo Hán Nôm học,
NXB.Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, tr.545-548.
7.
Phan Thạnh (2019), “Dấu ấn tư tưởng Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử trong văn học Phật giáo Thuận Quảng thế kỷ XVII-XVIII” trong Trần
Nhân Tông và Phật giáo Trúc Lâm - Đặc sắc tư tưởng, văn hóa, NXB.Đại Học
Quốc Gia, Hà Nội, tr.960, 963-964.
8.
Thích Đồng Bổn (Chủ biên, 2014), Phật
giáo thời Hậu Lê, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.
9.
Thích Phước Đạt và Thích Hạnh Tuệ (2021), Đại
cương tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Thị Bạch Ly (Biên tập), NXB.Khoa
Học Xã Hội, TP.Hồ Chí Minh.
10. Thích
Phước Đạt và Thích Hạnh Tuệ (2022), Thiền học Việt Nam, Trần Thi
Ca (Biên tập), NXB.Phụ Nữ Việt Nam, Hà Nội.
11. Thích
Viên Đức (2011), Kinh Chuẩn Đề đà ra ni [online], viewed 28/5/2022, from:<http://www.daibi.vn/2011/03/kinh-chuan-de-da-ra-ni/ >.
12. Trần
Hồng Liên, “chùa Bửu Lâm trong bối cảnh chùa Nam bộ” trong Nguyễn Hữu Ý (chủ
biên), Di tích chủa cổ Bửu Lâm, (2003), NXB.Trẻ, TP.HCM, tr.129, 135.
13. Trần
Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (cái nhìn hệ thống - loại
hình) [online], NXB. TP.Hồ
Chí Minh, viewed 29/5/2022, from:<https://downloadsachmienphi.com>.
14. Viện
Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện nghiên cứu Hán Nôm, Bia Văn miếu Hưng
Yên [online], viewed 28/5/2022, from:<http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=563>.
15. Viện
Văn học (1998), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, NXB.Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội.