Lục thành tựu trong kinh Hoa nghiêm
luc thanh tuu
LỤC THÀNH TỰU TRONG KINH HOA NGHIÊM
Chân Hiền Tâm
Toàn bộ những gì ghi
ở bài viết này đều được lấy ra từ bộ Hoa nghiêm thám huyền ký của Tổ Hiền
Thủ.
Hoa nghiêm thám
huyền ký y vào bộ Hoa nghiêm 60
quyển, thuộc Đại tạng kinh 9, số 278,
do
Phật-đà Bạt-đà-la thời Đông Tấn dịch từ Phạn sang Hán, mà giải thích.
Phạm vi bài này sẽ
nói về tín, nghe, thời, xứ và chủ thành tựu. Chúng thành tựu sẽ được nói ở số
báo sau.
Đại phương quảng
hoa nghiêm, phẩm Thế gian tịnh nhãn ghi: Như
thị (đúng như) tôi nghe, một thời Phật ở đạo tràng Tịch diệt, thuộc nước
Ma-kiệt-đà, mới thành chánh giác. Đất kim cang này đầy đủ nghiêm tịnh, v.v. Như
Lai ở trên
bảo tòa sư tử này, nơi tất cả pháp, thành tối chánh giác, liễu pháp ba đời bình
đẳng trí thân, nhập vào khắp tất cả thân ở thế gian, diệu âm vang khắp tất cả
thế giới không thể cùng tận, giống như hư không, v.v.
Đang cùng ở với các Đại Bồ-tát số nhiều như vi trần trong các thế giới Phật, tên
chư vị là Phổ Hiền Bồ-tát, Phổ Đức Trí Quang Bồ-tát, v.v. Lại có chúng Lực sĩ
Kim Cang số nhiều như vi trần trong các thế giới Phật, tên chư vị là Kiên Cố
Quang Diệu Lực Sĩ, Nhật Quang Diệu Lực Sĩ, v.v. Lại có các Địa thần, số nhiều
như vi trần trong các thế giới Phật, tên chư vị là Tịnh Hoa Quang Thần, Thiện Tư
Quang Minh Thần, v.v.
Theo đó thì thấy
Như thị
là tín thành tựu. Tôi nghe là nghe thành tựu. Một thời là thời
thành tựu. Phật Như Lai là chủ thành tựu. Đạo tràng tịch diệt thuộc
nước Ma-kiệt-đà là xứ thành tựu. Bồ-tát, chúng Lực sĩ Kim Cang, các Địa
thần, v.v. là chúng thành tựu.
LÝ DO AN LẬP SÁU
THÀNH TỰU
- Phật dạy an lập
Khi Phật sắp nhập
Niết-bàn, ngài A-nan thưa, “Khi Như Lai nhập diệt rồi, đầu các kinh nên để
lời gì?”. Phật trả lời, “Đầu
các kinh nên để sáu câu “Như thị tôi nghe…”.
Hoặc như trong kinh Đại bi, khi A-nan thỉnh Phật: “Làm sao kết tập
pháp nhãn?”, Ngài trả lời: “Sau
khi ta diệt độ, các Đại đức Tỳ-kheo có thể sẽ hỏi như vậy: “Thế Tôn giảng nói
các kinh như Đại-a-ba-đà-na, v.v. ở đâu?”. Ông nên đáp:
“Như thị tôi nghe, một thời Phật tại nước Ma-già-đà, dưới cây bồ-đề, vừa thành
chánh giác, thuyết pháp… hoặc giữa hai cây sa-la thuyết pháp…”. Cứ như thế có
hơn hai mươi chỗ thuyết kinh, Phật tự dạy lại cho A-nan kết tập. Nên dạy lập sáu
nghĩa đó.
-
Vì
đoạn nghi
Như Tam tạng Chân Đế nói: “Theo Vi tế luật, khi
kết tập pháp tạng A-nan phải lên tòa cao. Thân ông đầy đủ tướng hảo như thân
Phật, nhưng khi xuống tòa thân ông lại như cũ. Hội chúng thấy điềm này sinh ba
điều nghi: Thứ nhất, nghi Phật Đại sư từ bi, từ Niết-bàn trở lại vì đại chúng
thuyết pháp. Thứ hai, nghi Phật tiên từ phương khác đến. Thứ ba, nghi A-nan
chuyển thân thành Phật. Nay vì trừ ba cái nghi đó mà lập sáu thành tựu”. Cho
nên A-nan tự xưng: “Pháp như vậy tôi được nghe từ Phật” là để biết không
phải là Phật từ Niết-bàn trở lại thuyết pháp, cũng không phải là Phật từ phương
khác đến, cũng không phải là tự thân A-nan thành Phật, chỉ do pháp lực khiến
ngài giống Phật.
-
Vì để đời vị lai sinh lòng tin
Như luận Đại trí độ nói: “Đầu các kinh
đều để thời, phương, chủ, v.v. vì muốn người sinh tín tâm”.
-
Vì lìa lỗi thêm bớt
Luận Phật địa nói: “Nên biết, nói ‘Như
thị tôi nghe’ này là ý muốn tránh cái lỗi thêm bớt khác với lời Phật”. Nghĩa
là, đúng như pháp tôi đã nghe từ Phật, không phải do người khác truyền lại. Hiển
thị người nghe có khả năng hiểu được những gì đã nghe, hoàn toàn lìa lỗi thêm
bớt sai khác. Không phải như ngu phu không thể kham nổi những gì đã nghe, cũng
không thể lìa lỗi thêm bớt sai khác. Lúc kết tập pháp, người truyền Phật giáo, y
theo giáo của Như Lai, đầu tiên nói lời này là vì muốn chúng sinh cung kính tin
nhận. Nói “Đúng như pháp tôi nghe từ Phật” thì văn nghĩa nhất định không
thể thêm bớt. Cho nên người nghe nên nghe nghiêm chỉnh, nghe rồi như lý tư duy,
chuyên cần tu học.
-
Vì muốn dừng các tranh luận
Nếu tự chế tác thì tranh luận sẽ khởi. Nghe Phật
nói thì không như vậy. Đây là nói theo luận Đại trí độ.
-
Vì để phân biệt với ngoại đạo
Kinh luận ngoại đạo, có khi nói do vách đá lỡ sạt
mà được, có khi nói từ chim xanh ngậm đến, v.v. khó mà tin nhận. Đây hiển hết
mọi ngóc ngách để rõ pháp không nói xằng bậy, khiến người tin nhận.
Do sáu lý do trên mà an lập lục thành tựu.
TÍN THÀNH TỰU
Theo luận Đại trí độ thì “như” là thuận, “thị” là tin, cũng là ấn vậy,
là ấn thuận tin nhận, nên nói “như thị”. Đúng như vậy mà nêu hết toàn bộ văn
nghĩa là chỉ ra pháp mình đã được nghe, nên nói “như thị”.
Tam tạng Trường Nhĩ y vào Tam bảo giải thích từ “như thị” như sau:
- Phật: Như những gì Phật nói, thị (đúng) những gì ta nghe. Như những gì
ta nghe, thị (đúng) những gì Phật nói.
- Pháp: Như những gì ta nghe, thị (đúng) giáo xứng với lý. Như giáo xứng với lý,
thị (đúng) những gì ta truyền lại.
- Tăng: Như những gì ta nghe, thị (đúng) những gì Bồ-tát đồng nghe, như những gì
Bồ-tát đồng nghe, thị (đúng) những gì ta truyền lại.
Luận Phật địa nói: “Người truyền giáo của Phật nói: “Như thị (đúng
như) việc xưa ta đã từng nghe”. Như thị, nói tổng quát, y nơi bốn nghĩa mà
chuyển, là y nơi thí dụ, nơi lời dạy bảo, nơi hỏi đáp và nơi hứa khả”.
NGHE THÀNH TỰU
Nói tôi nghe, thì tôi là ngũ uẩn không thật. Nó chính là loại giả ngã được nói
trong bốn thứ ngã là chân ngã, tự tại ngã, giả ngã và chấp ngã.
Chân ngã, là các thứ thường, lạc, ngã, tịnh trong chân như, lấy chân như làm
tánh. Tự tại ngã, là tám loại tự tại ngã, lấy trí làm tánh. Giả ngã, là ngũ uẩn
không thật, chỉ là sở hiện của thức, dường như có chủ tể, lấy đó làm tánh. Chấp
ngã, lấy sở chấp phân biệt và câu sinh làm tánh. Trong bốn loại ngã đó, giả ngã
có đủ hai thứ đầu.
Sao không xưng vô ngã mà lại xưng ngã? Vì muốn hiển đích thân nghe, vì tiện lời,
vì thuận theo thế gian, vì hiển vô ngã, v.v. đều như luận Đại trí độ nói.
Người truyền pháp vì sao không xưng tên mà nói tôi? Xưng tên thì bị cái lỗi là
trùng tên, dễ lạm dụng.
Nói tôi, không phải cũng chung sao? Đã xưng là tôi thì nhất định thuộc mình, tức
đã phân biệt với người.
Vì sao không nói tai nghe mà nói tôi nghe? Vì tổng thì thu biệt. Tai nghe âm
thanh, ý hiểu văn nghĩa, v.v. hòa hợp không hai, đều từ cái nghe cái nói của tự
mình. Theo luận Tát-bà-đa thì căn nghe. Theo luận Thành thật thì
thức nghe. Theo luận Đại trí độ thì do hòa hợp mà nghe, là không và vô
tác. Kinh Niết-bàn nói: “Có bốn nhân duyên hòa hợp nên nghe. Một là
nhĩ căn chẳng hoại. Hai là âm thanh ở trong vùng có thể nghe. Ba là khoảng giữa
không có chướng ngại. Bốn là muốn nghe. Vì thế mà được nghe”. Cho nên, cái
nghe này không nghe mà nghe.
Nói đủ thì có đến mười duyên: Bản thức làm căn bản y, chủng tử nhĩ thức làm nhân
duyên y, mạt-na làm nhiễm ô y, ý thức làm phân biệt y, tự loại nhĩ thức làm đẳng
vô gián y, nhĩ căn không hoại làm đồng cảnh căn, tác ý muốn nghe, có cảnh làm
sở duyên để duyên, khoảng giữa không chướng ngại, trong vùng có thể nghe. Cho
nên, cái nghe này không có tự tánh, không nghe mà nghe.
-
Tôi nghe, là A-nan hay người nào khác?
Khi thuyết kinh này, hàng Nhị thừa như đui như điếc, lẽ nào “Tôi nghe” lại do
A-nan xưng?
Đây có hai ý.
1. Nếu A-nan tự xưng, cũng không lỗi. Vì theo kinh A-xà-thế vương sám hối,
A-nan có ba hạng:
- A-nan-đà, đây gọi là Khánh Hỷ, trì tạng pháp của Thanh văn. Đối với tạng pháp
của hai thừa cao hơn thì tùy lực, tùy phần.
- A-nan-đà Bạt-đà-la, đây gọi là Khánh Hỷ Hiền, trì tạng pháp Trung thừa. Đối
với tạng pháp Đại thừa cao hơn thì tùy lực tùy phần. Đối với tạng pháp Tiểu thừa
thấp hơn thì đã sẵn phần thọ trì.
- A-nan-đà-sa-già-la, đây gọi là Khánh Hỷ Hải, Bồ-tát trì pháp tạng Đại thừa,
đối với tạng pháp của hai thừa thấp hơn, đã sẵn phần thọ trì.
Theo văn kinh đó thì A-nan Khánh Hỷ Hải là Đại Bồ-tát có thể trì đại pháp, cũng
không trái lý.
Theo Viên giáo thì người truyền pháp đều từ Hải ấn tam-muội của Phật Lô-xá-na
hiện ra, chính là Phật.
2. Không phải do A-nan truyền, cũng không trái lý. Luận Đại trí độ nói: “Một
là hiển thị giáo. Hai là bí mật giáo. Kinh Đại phẩm là hiển thị giáo nên phó
chúc cho A-nan. Kinh Pháp hoa là bí mật giáo nên phó chúc cho Hỷ Vương, v.v...”.
Kinh Niết-bàn cũng nói: “Kinh nào A-nan chưa nghe thì Bồ-tát Hoằng
Quảng phải vì chúng mà lưu thông”. Y cứ đó thì Bồ-tát Hoằng Quảng sẽ xưng là
“Như thị tôi nghe…”. Theo luận Đại trí độ thì
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi xưng là “Tôi nghe…”. Vì luận đó nói Văn-thù-sư-lợi
cùng với A-nan ở nơi thanh tịnh khác, kết tập Đại thừa tạng. Trong kinh
Văn-thù-sư-lợi bát Niết-bàn, 400 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn,
Văn-thù-sư-lợi vẫn còn tại thế, nên biết ông là người truyền pháp này.
- Đích thân nghe hay do truyền lại?
Nếu tôi nghe là A-nan, vậy A-nan là người đích thân nghe Phật thuyết hay nghe
thuyết lại từ người khác? Tích truyền về việc này không đồng.
1. Theo Tiểu thừa, có hai thuyết.
- Tương truyền A-nan sinh vào đêm Phật thành đạo, hai mươi tuổi mới làm
đệ tử Phật. Vì thế, hai mươi năm trở về sau A-nan mới đích thân nghe Phật nói,
còn hai mươi năm trở về trước thì nghe truyền lại. Kinh Chuyển pháp luân
nói: “Khi A-nan kết tập kinh tạng tự nói kệ rằng: “Khi Phật mới thuyết pháp/
Lúc đó tôi không thấy/ Chỉ nghe truyền lại rằng/ Phật đến Ba-la-nại/ Vì chúng
năm Tỷ-kheo/ Chuyển pháp luân Tứ đế”. Như vậy, hai mươi năm trở về trước
A-nan không đích thân nghe.
- Tương truyền đều là A-nan đích thân nghe. Luận Tát-bà-đa ghi: “A-nan
khi làm thị giả của Phật đã thỉnh nguyện rằng, “Nguyện Phật vì con mà thuyết lại
những kinh điển đã thuyết trong hai mươi năm qua”. Luận Tỳ-ni-mẫu
cũng nói đồng với đây. Nên biết, tất cả đều là đích thân nghe.
2. Theo Đại thừa, đều là đích thân nghe, có hai ý.
-
Phật vì A-nan mà thuyết lại. Như kinh Thắng Man, v.v. là Phật trở về bản
xứ, rồi vì A-nan lặp lại. Kinh Đại bi Phật cũng nói như thế. Cho nên là
đích thân nghe.
- A-nan thường nghe. Kinh Niết-bàn nói: “A-nan là người đa văn. Dù có
mặt hay không có mặt, vẫn có thể hiểu rõ nghĩa thường và vô thường”. Lại
nói: “A-nan được tam-muội giác ý nên chỗ Phật thuyết kinh dù gần hay xa vẫn
thường nghe”.
THỜI
THÀNH TỰU
Một thời,
theo luận Phật địa, là một sát-na hoặc nhiều sát-na tương tục. Song chỉ
nhắm vào chỗ rốt ráo của nói và nghe mà giả lập tên chung là “một thời”. Với
Tiểu thừa là thật thời. Với Đại thừa là giả nói. Theo Lương nhiếp luận
thì "một thời" có ba nghĩa là bình đẳng, hòa hợp và chuyển pháp luân. Nói bình
đẳng thời, vì không có chìm nổi điên đảo. Nói hòa hợp thời vì khiến cái nghe và
năng nghe đang nghe. Nói chuyển pháp luân thời vì đang thuyết và đang thọ nhận.
-
Kinh
Hoa nghiêm được thuyết vào lúc nào?
Pháp sư Bồ-đề Lưu-chi
nói: “Trong 8 hội Hoa nghiêm, 5 hội trước là Phật thành đạo nói trong tuần
đầu. Từ hội VI về sau nói trong tuần thứ hai. Vì phần đầu kinh Thập địa nói tuần
thứ hai”. Cũng có người nói: “Hội
VIII thuyết vào hậu thời. Vì trong kinh có năm trăm Thanh văn như Thu Tử, v.v.
đều được độ ở hậu thời”.
Theo Hoa nghiêm
thám huyền ký thì "Những phán quyết đó e không thuận với kinh. Vì tuần
đầu nhất định không thuyết pháp. Luận Thập địa nói: ‘Vì sao không thuyết trong
tuần đầu? Vì tư duy hạnh và nhân duyên hạnh’. Đã nói tư duy thì rõ ràng không
phải là thuyết pháp. Lời nói trên, dù có vớt vát, cũng chỉ có thể nói là không
thuyết Thập địa, không thể nói không thuyết các pháp khác. Nếu vậy cũng không
thể nói là tư duy. Chưa kể phần sau của luận lại giải thích: ‘Vì hiển pháp lạc
của mình nên không thuyết’, thì biết tuần đầu nhất định không thuyết pháp. Lại,
hội VIII cũng không thuyết vào hậu thời. Vì trong một bộ kinh sao có thể trước
chỉ thuyết một nửa, giữa nói phần kinh khác, sau mới tiếp tục? Lẽ nào cho Phật
không có lực Đà-la-ni, không thể trong nhất niệm có thể thuyết tất cả pháp. Thu
Tử ở Kỳ Viên đều là chín đời tương nhập. Văn sau nói kệ: “Tất cả kiếp quá khứ/
Trụ vị lai hiện tại/ Tất cả kiếp vị lai/ Trụ lại thời quá khứ”. Cũng nói: “Ở
trong nhất niệm/ Kiến lập tất cả/ Phật sự ba đời”, v.v. Các văn như thế mọi chỗ
đều có. Há có thể vì việc Thu Tử được độ ở Kỳ Viên mà cho là không phải. Thì
biết, kinh này nhất định là thuyết trong tuần thứ hai".
-
Thuyết
trong tuần thứ hai, với ba nghĩa.
1. Nhiếp hết 8 hội mà
đồng thời thuyết.
2. Nhiếp hết 8 hội mà
có trước sau. Vì trong vô lượng kiếp không gì là không tận. Vì là thời giải
thoát không thể nghĩ bàn.
3. Nhiếp trùng trùng
vô lượng niệm kiếp, như lưới Nhân-đà-la lớp lớp thu nhiếp.
Nhiếp hết 8 hội mà
đồng thời thuyết thì sao lại có trước sau? Vì như in ấn văn tự. Đọc thì có trước
sau nhưng in vào giấy thì đồng thời. Nếu như thế thì sao trùng hội thành được?
Trùng hội cũng đồng thời, vì vô ngại, như ánh sáng các đèn hòa nhập nhau.
-
Thuyết trong tuần thứ hai, tùy căn khí mà có sai khác.
- Theo
kinh Phổ diệu, tuần thứ hai Phật ở tại vườn Lộc Uyển vì năm đệ tử ba lần
chuyển pháp Tứ đế.
Đây thuộc Tiểu thừa.
- Theo kinh Mật Tích lực sĩ,
tuần thứ hai tại vườn Lộc Uyển, Phật vì vô lượng đại chúng chuyển pháp luân, có
người được đạo A-la-hán, có người được đạo Bích chi Phật và Bồ-tát.
Đây thuộc Tam
thừa.
- Theo
kinh Hoa nghiêm, tuần thứ hai ở dưới thọ vương vì chúng Bồ-tát hải hội
chuyển vô tận pháp luân. Đây thuộc Nhất thừa.
- Đồng thời mà có sai khác hiển
thị việc gì?
- Ứng vào pháp là muốn hiển thị
gốc và ngọn đồng thời.
- Ứng vào người là muốn hiển tùy
cơ cảm mà có sai khác, đây thuộc phần giáo ngọn. Do thấy nghe có khác mà dẫn đến
việc không đồng. Hạng có căn khí thuộc phần giáo gốc thì cố định, nên chỉ trong
tuần thứ hai.
Luận Thập địa nói: “Thời,
xứ, v.v là hiệu lượng hiển thị cho sự thù thắng. Vì pháp này thù thắng nên được
nói vào thời đầu và tại thắng xứ”. Nói vào thời đầu là muốn hiển thị pháp
gốc thù thắng. Phần giáo ngọn cũng đồng với gốc, là muốn hiển thị ngọn không lìa
gốc. Hiển thị gốc không phải ngọn, vì với phần giáo ngọn thì thời không cố định,
còn với pháp gốc thì thời cố định trong tuần thứ hai, hoàn toàn không thay đổi,
không như phần giáo ngọn.
XỨ THÀNH TỰU
Xứ, nói chung là nước
Ma-kiệt-đà,
nói riêng là đạo tràng tịch diệt. Luận Đại trí độ nói: “Đắc A-nậu
Bồ-đề nơi tụ lạc Trắc-âu-lâu-tần-loa, bên sông Ni-liên-thiền, nước Ma-già-đà…”.
Đây gọi là Bất Hại Quốc. Vì trong nước này những ai phạm tội chỉ bị đuổi đi,
không có tử hình. Hình ảnh đó nói lên tướng từ tế của đại pháp. Có khi gọi là
nước Thiện Thắng. Có khi gọi là Ma-già, là tên của một vì sao, đây gọi là Bất
Ác, là sao chủ của tháng 12. Ma-già-đà, thì Ma-già là Bất Ác, Đà là Xứ, nên nói
là Bất Ác Xứ, cũng gọi là nước Tinh Xứ.
Đạo tràng có bốn
nghĩa là sự xứ, hạnh, lý và thông tất cả pháp.
Sự xứ, như Câu-xá
luận nói: “Ở giữa châu Diêm-phù, từ trên đất kim cang khởi lên tòa kim
cang san bằng đất và các bờ cao của châu Diêm-phù. Tất cả Bồ-tát ở nơi đó đang
tu tập chánh định kim cang. Vì sao? Vì không chỗ y chỉ nào khác có thể chịu được
loại chánh định này”. Hạnh, như kinh nói “bố thí là đạo tràng”, v.v. Lý, như
kinh Duy-ma nói tất cả pháp là đạo tràng, vì biết tất cả pháp là không.
Thông tất cả pháp là tất cả nhân, pháp, v.v. y đó đều được đạo xứ, gọi là đạo
tràng.
Tịch diệt cũng có bốn
nghĩa là chướng diệt, chứng diệt, hiển đức diệt và ích vật thành diệt.
Xứ nói trong kinh này thuộc tịnh độ hay nhiễm giới?
Nếu thuộc tịnh độ thì không nói đến Ma-kiệt-đà và Diêm-phù-đề. Nếu thuộc nhiễm
giới thì văn sau không nói đến Liên hoa tạng thế giới hải. Nhưng trong kinh đều
nói đủ thì biết kinh này tịnh độ và nhiễm giới dung hợp tương nhiếp vô ngại, tùy
duyên mà hiển thị theo tứ cú: hoặc chỉ có Sa-bà vì gốc theo ngọn; hoặc chỉ có
Hoa tạng vì ngọn theo gốc; hoặc cả hai cùng hiện vì y nơi Hoa tạng mà có Sa-bà,
nhiễm tịnh tương phân, ngọn y vào gốc; oặc cả hai đều dứt vì thành tựu quả hải
bất khả thuyết.
Hoa tạng giới, với nhiễm tịnh viên dung như lưới châu vô tận của trời Đế Thích,
là chỗ thập Phật thuyết pháp. Y báo chánh báo dung hợp đầy đủ tam thế gian.
Chỗ này chỉ có Nhất thừa Biệt giáo thuyết. Kinh này đáng ra chỉ có phần này.
Song vì gốc và ngọn không lìa nhau nên còn nhiếp thêm hai phần sau: Một, là mười
sáu
đại quốc thuộc tam giới, là chỗ hóa thân thuyết pháp, là chung cho cả giáo Tiểu
và Tam thừa. Hai, là các tịnh độ vi diệu ngoài tam giới, là chỗ báo thân (với
mười tám thứ viên mãn trong thọ dụng độ) thuyết pháp, như nói trong các kinh
Phật địa, v.v. Tịnh độ vi diệu này không nhiếp thuộc tam giới mà cũng không
lìa tam giới, vì khắp tất cả xứ, là chung cho cả giáo Tam thừa và Nhất thừa.
Ở mặt biểu thị pháp, nương vào thắng xứ là muốn hiển thị pháp được nói đây thù
thắng. Pháp thù thắng có ba: Một, dưới cây này được Bồ-đề mà không thuyết pháp,
là muốn hiển thị sở thuyết như sở đắc, không theo căn cơ sai biệt mà dời đổi như
những gì được thuyết ở vườn Lộc Uyển. Hai, y vào Liên hoa tạng giới viên dung,
là muốn hiển thị tính viên mãn thù thắng của pháp được khai mở. Ba, y vào
xứ trùng trùng như lưới châu trời Đế Thích, là muốn hiển thị pháp được nói cũng
trùng trùng vô tận, như nói ở phẩm Bất tư nghị giải thoát, v.v.
Trong phần xứ này, có nêu thêm đất kim cang, cây
bồ-đề và tòa sư tử. Đất kim cang là muốn hiển thị nền tảng sở y của hạnh. Cây
bồ-đề là hạnh đức kiên lập. Tòa sư tử là hạnh dụng nhiếp hóa làm lợi ích cho
chúng hữu tình. Theo tính duyên khởi, mỗi thứ đều dung nhiếp tất cả pháp. Theo
văn kinh, mỗi thứ có mười môn để phân biệt. Như đất kim cang có mười câu hiển
mười loại nghiêm tịnh: hoa báu nghiêm tịnh, bảo luân nghiêm tịnh, diệu sắc,
tràng phan, hương man, lưới báu, mưa báu, hoa cây, Phật lực, kỳ đặc nghiêm tịnh.
Mười thứ này dùng hiển thị các nghĩa như vi diệu, khai mở, ra quả, hàng phục,
đầy đủ công đức, v.v. Vô lượng, vô biên diệu nghĩa hàm chứa trong đó.
CHỦ THÀNH TỰU
Chủ thành tựu chính
là Phật Như Lai, là nói về Trí chánh giác thế gian viên mãn.
Phật là giác. Có hai
nghĩa:
1. Bản giác và thủy
giác.
Bản, giác sở tri.
Thủy, giác phiền não.
2. Tự giác, giác tha
và giác hạnh viên mãn.
Kẻ đã giác gọi là
giác giả, cũng gọi là Bà-già-bà. Theo luận Đại trí độ, Bà-già-bà có bốn
nghĩa, có đức, khéo phân biệt, có thanh danh và thường phá dâm, nộ, si. Theo
Phật địa luận, Bà-già-bà có sáu nghĩa, tự tại, sí thạnh, đoan nghiêm, danh
xưng, cát tường và tôn quý. Tam tạng Chân Đế dẫn Chân thật luận giải
thích Bà-già-bà có đến mười nghĩa: giác thắng, thiên cổ, v.v.
Như Lai, luận Địa
trì nói: “Ngôn ngữ nói ra không trái với Như nên gọi là Như Lai”.
Luận Chuyển pháp luân nói: “Đệ nhất nghĩa đế gọi là Như. Chánh giác
gọi là Lai. Chánh giác đệ nhất nghĩa đế gọi là Như Lai”. Kinh nói: “Nương
sáu ba-la-mật, Lai (đến) thành chánh giác, nên gọi là Như Lai”. Luận nói: “Nương
đạo Như thật, Lai thành chánh giác, nên gọi là Như Lai”.
Đã xuất chướng được gọi là Như Lai. Vậy khi còn tại triền có thể gọi là Như Khứ
không? Cũng có nghĩa đó nên kinh nói: “Pháp thân lưu chuyển trong năm đường
gọi là chúng sinh”. Đã nói lưu chuyển thì phải biết là có Khứ (đi). Mà cũng
không Khứ (đi), vì tuy ở tại triền mà bất động.
Hỏi: Nếu xuất chướng mà bất động thì nên không có Lai (đến).
Đáp: Tịnh pháp thuận với chân, từ chân mà khởi nên phải có Lai. Nhiễm pháp trái
với lý, là vọng pháp, nên không thể có Khứ, cũng không có Lai. Vì thủy giác đồng
bản giác. Thủy giác đã không có tướng dị cho nên không Lai. Kinh nói: “Như
Lai không từ đâu đến cũng không đi về đâu, nên nói Như Lai”.
Tất cả pháp là pháp nhị đế (sở giác). Tối chánh giác là diệu trí (năng giác).
Bồ-tát cũng có chánh giác nhưng là từng phần, chưa được tận cùng, nên không được
gọi là “tối”. Phật thành tựu đến chỗ tận cùng nên gọi là Tối chánh giác.
-
Phật trong 8 hội này là thân nào?
Có người giải thích đó là hóa thân Phật, vì thị hiện tám tướng thành đạo dưới
cây Bồ-đề là hóa thân Phật, chẳng lìa thăng thiên là trùng hóa, vì tên khác của
Thích-ca Mâu-ni là Lô-xá-na, không phải báo thân nào khác. Có người giải thích
Phật nói kinh này là thật báo thân, vì là thân pháp giới Lô-xá-na, vì cư trú
ở tịnh độ Liên hoa tạng. Trong hội VII, đầu tiên là tán thán Phật với đủ hai
mười mốt loại công đức thù thắng, chính là thật báo. Chỉ vì không lìa hóa thân,
nên nói luôn dưới cây bồ-đề, không phải là hóa thân.
Thám huyền ký
thì giải thích: Căn cứ văn kinh sau, Phật đây là thân của thập Phật thông cả tam
thế gian. Vì thuyết cho hàng Bồ-tát chưa đăng địa là Thập tín và Tam hiền, nên
sở kiến đó không phải là thật báo thân. Nhưng cư trú ở Liên hoa tạng thì không
thể hạn cuộc trong hóa thân. Thân quốc độ, v.v. không phải là hai thân đó mà
nhiếp cả hai thân đó. Tánh dung thông nên đầy đủ chủ bạn như lưới châu
trời Đế Thích. Cho nên, Phật trong 8 hội này là thân thập Phật trùm khắp pháp
giới.
-
Trong việc thuyết pháp, Phật có bao nhiêu thân?
Có bốn thân. Đó là đồng với thân A-la-hán, hóa thân Phật, báo thân Phật và thập
thân Phật. Thân A-la-hán thị hiện thuyết pháp Tiểu thừa. Hóa thân Phật thị hiện
thuyết pháp Tam thừa, thuyết rộng cho hàng địa tiền, thuyết lược cho hàng đăng
địa. Báo thân Phật thị hiện thuyết pháp Tam thừa, thuyết lược cho hàng địa tiền,
thuyết rộng cho hàng đăng địa. Thập thân Phật hiển thị pháp Nhất thừa, đồng nói
sáu vị, vì pháp được nói ở đây là pháp vô tận đầy đủ chủ bạn. Phật đây đồng với
thập thân vô tận này.
-
Xét ở mặt sai khác thì thế nào?
Một thân Thích-ca, do ứng với căn cơ sai biệt của chúng sinh mà thành nhiều
loại.
- Hoặc đồng là phàm không phải thánh, như thấy thân voi đen chân dài, thân thần
cây, v.v. Đây thuộc địa vị trời, người.
- Hoặc đồng là thánh không phải phàm, như đồng thân A-la-hán.
- Hoặc vừa phàm vừa thánh, vì thân thật báo do cha mẹ sinh, từ tứ đại làm thành,
nên đồng với phàm thân. Đầy đủ ngũ phần pháp thân, các lậu hoặc hết, nên là
thánh.
- Hoặc không phải phàm không phải thánh, vì nhiếp thuộc tam thân của Đại thừa,
vì không đồng với thánh A-la-hán của Tiểu thừa.
- Hoặc là hóa thân, không phải pháp và báo thân, vì đủ tám tướng ở Diêm-phù-đề,
vì ở đỉnh trời Sắc giới lập riêng thật báo kia, như nói trong kinh Phạm võng,
v.v. Đây thuộc Sơ giáo.
- Hoặc là báo thân, không phải hóa và pháp thân, vì thân này đầy đủ 21 thứ công
đức thù thắng, là thọ dụng thân, như nói trong kinh Phật địa. Đây thuộc
Chung giáo.
- Hoặc là pháp thân, không phải là báo và hóa thân, vì sắc là như, kinh nói:
“Thân hiện nay của ta chính là pháp thân”. Đây thuộc Đốn giáo.
- Hoặc đủ cả pháp, báo và hóa thân, như ba phần trước vừa nói.
- Hoặc không phải pháp, báo và hóa thân, vì là thập Phật, vì thông cả tam
thế gian, vì đầy đủ chủ bạn, như văn sau của kinh đã nói. Đây thuộc Viên giáo.
Cho nên, thân Thích-ca này viên dung, vô ngại, rất khó nghĩ bàn.
-
Xét ở mặt dung nhiếp thì sao?
Có hai:
- Nhiếp hết thảy tam thế gian.
- Chánh báo là lỗ lông, y báo là trong hạt bụi, mỗi thứ trùng trùng nhiếp đủ tam
thế gian cùng với tất cả pháp, như lưới châu trời Đế-thích hiện.
Phần chủ thành tựu xong.
Bài sau sẽ nói về chúng thành tựu.
(Còn tiếp)