Cảm nhận về bài kệ Thị tịch của Ni sư Diệu Nhân
cam nhan ve bai ke
CẢM NHẬN VỀ BÀI KỆ THỊ TỊCH CỦA NI SƯ DIỆU NHÂN
Sinh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phược thiêm triền
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu Thiền
Thiền Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn
.
Đôi nét về
Ni
sư Diệu Nhân (1042-1113)
Ni sư xuất thân từ hoàng tộc, là con gái của Phụng Càn Vương Lý
Nhật Trung (con vua Lý
Thái Tông). Bà tên thật là Lý
Nhật Kiều, người làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Được vua Lý
Thánh Tông đem vào cung nuôi và phong làm công chúa. Sau khi chồng mất, một hôm
bà nói với thể nữ: “Ta xem tất cả các pháp trong thế gian đều như mộng ảo, huống
gì những thứ vinh hoa phù phiếm mà có thể trông cậy được hay sao”.
Sau đó, bà theo học đạo với
Thiền
sư Chân Không thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi
và được
Thiền
sư ban đạo hiệu là Diệu Nhân. Ni sư tu hành đắc đạo và trở thành
Thiền
sư đứng đầu của thế hệ thứ 17
ở
dòng thiền này.
Bài kệ Thị tịch
Những bài kệ thị tịch trước hết là gia tài tâm linh cho thấy kinh nghiệm chứng
đắc của các bậc Thánh, tương tự tam tạng kinh điển mà Đức Phật để lại. Đó không
phải là văn chương chữ nghĩa để hý
luận, mà là ngón tay để chỉ mặt trăng. Bài kệ
Ni
sư Diệu Nhân đọc trước khi viên tịch cũng vậy. Có nhiều truyền bản khác nhau về
bài kệ này. Bài viết của chúng tôi y theo bản in trong cuốn Thiền uyển tập
anh, được dịch nghĩa như sau:
Sinh lão bệnh tử
Xưa nay vẫn vậy
Nếu muốn xa lìa
Cởi trói càng trói
Mê mới cầu Phật
Hoặc mới cầu Thiền
Thiền Phật không cầu
Uổng phí cả lời.
Hai câu đầu mang đến cho người đọc cảm giác bình yên vì bao quát và đồng cảm
được tất cả những nỗi thống khổ của đời người. Con người tham sống sợ chết, sợ
đau khổ, sợ đủ thứ, sợ nhất là cái chết, thì
Ni
sư khẳng định “sinh lão bệnh tử, xưa nay vẫn vậy”, đó là quy luật. Hai câu đầu
của bài kệ cho thấy
Ni
sư đã vượt thoát sinh tử cho nên không còn sợ sinh tử nữa,
Ni
sư đã thể nhập được quy luật vô thường. Sinh lão bệnh tử ở đây tượng trưng cho
Khổ
đế.
Nỗi khổ của con người không chỉ là sinh, lão, bệnh, tử,
mà
còn là khổ vì oán ghét gặp gỡ, thương yêu xa lìa, mong cầu mà không được, và tất
cả khổ đau nói tóm lại đều do chấp thủ năm uẩn.
Trong kinh
Tương
ưng,
phẩm Gánh nặng, Đức Phật đã tuyên thuyết chân lý
thẳm sâu về năm uẩn
như sau:
Năm uẩn là gánh nặng
Kẻ gánh nặng là người
Cầm lấy gánh nặng lên Chính là khổ ở đời
Còn đặt gánh nặng xuống Chính là lạc ở đời
Đặt gánh nặng xuống rồi
Không mang thêm gánh khác
Nếu nhổ khát ái lên
Tận cùng đến gốc rễ
Không còn đói và khát
Được giải thoát, tịnh lạc.
Trong kinh
A Nậu La Độ, Đức Phật dạy rằng xưa nay
Ngài
chỉ giảng dạy về
khổ
và con đường
diệt
khổ.
Ni sư Diệu Nhân đã liễu tri được Khổ
đế,
cảm giác bình an mà hai câu đầu của bài kệ mang lại cũng chính là sự bình an mà
Ni
sư đã đạt được trong tâm thức. Đức Phật dạy rằng ai liễu tri được một trong bốn
chân lý
của Tứ
diệu
đế
tức là đã liễu tri được ba chân lý
còn lại. Khổ
đế,
sự thật về khổ đau, là sự đồng cảm vĩ đại của Đức Phật đối với kiếp nhân sinh.
Giáo lý
mười hai nhân duyên lại là một cách lý
giải về nguyên nhân của khổ đau: “Vì có vướng mắc mà có hiện hữu, rồi sinh tử,
khổ não và ưu sầu không thể kể xiết” (kinh Độ người hấp hối).
Chúng sinh ai cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Tuy nhiên,
nhầm lẫn giữa hạnh phúc đích thực và hạnh phúc do năm món dục lạc đem lại, số
đông con người theo các dục quay cuồng. Rất ít người hiểu được rằng: “Trong cái
vui phi thời của ái dục, chất ngọt ngào thì ít mà cay đắng thì lại rất nhiều, sự
hưởng thụ rất bé mà tai họa thì lại rất lớn” (kinh Tuổi trẻ và hạnh phúc).
Vì vậy khổ đau là một vị thầy để chúng ta giác ngộ lời dạy của Đức Thế Tôn. Ni
sư Diệu Nhân đã qua được bờ bên kia nên quyết định bỏ chiếc bè xuống, không mang
theo nữa:
Dục cầu xuất ly
Giải phược thiêm triền.
Ni sư dạy rằng nếu muốn thoát ly
sinh tử thì như là muốn cởi trói mà lại tự trói thêm. Đây là ngôn ngữ của người
đã đắc đạo. Như Sa–di Đạo Tín hỏi ngài Mã Tổ, xin ban cho con pháp giải thoát,
Mã Tổ liền hỏi, ai trói buộc ông? Ngài Đạo Tín ngay đó hoát nhiên đại ngộ. Chúng
ta là kẻ phàm phu chưa liễu thoát sinh tử thì chớ nên hiểu lầm rằng không nên
thoát ly
sinh tử, không nên cầu đạo giải thoát. Chưa đến đích thì vẫn phải còn đi. Pháp
là phương tiện. Ni sư Diệu Nhân đã đạt tới cứu cánh nên buông bỏ phương tiện, đó
là rốt ráo tu hành mà trong kinh Kim
cương
Đức Phật đã dạy: “Nhữ đẳng Tỷ-kheo,
tri ngã thuyết pháp, như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”.
(Các thầy Tỷ-kheo,
nên biết pháp ta nói ví như chiếc bè, pháp mà còn phải bỏ huống là không phải
pháp).
Sinh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phược thiêm triền.
Bốn câu kệ này đồng thời cũng là phương tiện để hành giả quán chiếu. Xưa có vị
học trò thỉnh vấn một
Thiền
sư, bạch
hỏi
phải tìm Niết-bàn
ở đâu.
Vị
thiền sư đáp, cần
tìm ngay ở trong sinh tử. Đây cũng chính là ý mà Lục
tổ
Huệ Năng nói trong kinh Pháp
bảo
đàn:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly
thế gian giác
Ly
thế mích Bồ Đề
Kháp như cầu thố giác.
Ngài Lâm Tế quyết liệt hơn, bảo học trò: “Các
ngươi
là đồ ngu. Ra khỏi tam giới thì
các ngươi
đi đâu?”. Phải hiểu được ý chỉ của chư Tổ. Đó là chúng sinh
tức Phật, phiền não tức Bồ-đề
vậy. Bỏ bùn đi thì không có sen. Y theo bốn câu kệ đầu, hành giả cần quay về bản
tánh giác ngộ nơi tự thân mà không nên phóng tâm tìm cầu bên ngoài. Nhìn vạn
pháp đúng bản chất của nó là khổ, chấp nhận sự thật ấy, liễu tri được sự thật ấy
thì không cần cầu thoát ly
nữa vì không còn bị mũi tên thứ hai bức bách. Đó cũng là ý chỉ của hai câu kệ
tiếp theo:
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu Thiền.
Đây là lời dạy phá tan mọi chấp trước. Mê nên chấp Phật, chấp Thiền, nói cách
khác là chấp pháp. Người
tự tại với
sinh tử như
Ni
sư Diệu Nhân thì còn mê lầm gì nữa, cho nên mới nói:
Mê mới cầu Phật
Hoặc mới cầu Thiền.
Phàm phu chúng ta e rằng vẫn còn mê hoặc cho nên vẫn phải cứ còn tiếp tục cầu,
tiếp tục dụng công khai ngộ. Còn
Ni
sư Diệu Nhân đã đạt tới chỗ không còn tìm cầu gì nữa, tịch diệt vắng lặng là
cảnh giới của
Ni
sư:
Thiền Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn
(Thiền Phật không cầu
Uổng phí cả lời).
Đó là im lặng sấm sét của đạo. Là lời tuyên bố của ngài Vô Ngôn Thông:
Đừng
hỏi ta nữa, ta vốn là vô ngôn. Về ngữ nghĩa của câu Uổng khẩu vô ngôn,
vốn có dị bản là Đỗ khẩu vô ngôn.
Người
viết đồng tình với quan điểm của tác giả Hà Thúc Minh trong bài Bài kệ của
Ni
sư Diệu Nhân về sống và chết,
đăng trên Giác ngộ
online
ngày 12-10-2010,
rằng cách dùng uổng
-
vô trong câu Uổng khẩu vô ngôn cũng tương tự trong thành ngữ Uổng công
vô ích, và các văn bản chữ Hán đều ghi là uổng chứ không không
phải đỗ.
Tuy
Ni
sư nói rằng uổng khẩu vô ngôn nhưng
bà
đã từ bi để lại cho hậu thế một di ngôn hùng hồn đánh thức hàng
hậu học. Đến đây, có lẽ những ai đang hý
luận về đạo cũng nên nín lặng, thôi tìm cầu bên ngoài mà trở về với khả năng
giác ngộ sẵn có của mình. Ni sư đã tịnh khẩu mà chúng ta cứ “nhả ngọc phun châu”
mãi hoài e cũng khó coi.
Bài kệ Thị tịch trong mối liên hệ với một số bài kệ khác
Thiền sư Mãn Giác trước khi viên tịch đã để lại cho đệ tử một cành mai vĩnh
hằng tươi mới mà trải qua bao thế kỷ,
văn học Việt Nam vẫn vinh hạnh được
Thiền
sư góp vào:
Xuân đi trăm hoa nở
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
Sở dĩ cành mai ấy bất tử vì đó là cành mai tâm linh, là trạng thái tâm thức viên
mãn của
Thiền
sư. Còn ngài Vạn Hạnh trước đó cũng đã để lại bài kệ bất hủ:
Thân
như bóng chớp chiều tà
Cỏ
xuân tươi tốt, thu qua rụng rời
Sá
chi suy thịnh cuộc đời
Thịnh
suy như hạt sương rơi đầu cành.
Tất cả những bài kệ này đều có đặc điểm là được tác giả, những bậc tu hành đắc
đạo đọc trước khi viên tịch như di huấn để lại cho đệ tử. Cả ba bài kệ đều đề
cập đến quy luật vô thường, đều thấm đẫm tinh thần an nhiên, lạc quan, tự tại,
bình thản và vô úy. Ni giới Việt Nam vô cùng diễm phúc có được
Ni
sư Diệu Nhân như một mẫu mực để nương theo. Cùng với
Thiền
sư Vạn Hạnh,
Thiền
sư Mãn Giác và rất nhiều vị khác
vào
thời đại Lý
-
Trần, tấm gương tu hành và bài kệ Thị tịch của
Ni
sư đã làm nên vết son ghi dấu ấn một thời đại được coi là thuần từ và văn minh
nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam.
Tuệ Anh