Sự đóng góp của Thiền sư Nhất Hạnh trong việc giới thiệu Phật giáo Việt Nam trên bản đồ Phật giáo thế giới
su dong gop
Sự đóng góp của Thiền sư Nhất Hạnh trong việc giới thiệu
Phật giáo Việt Nam trên bản đồ Phật giáo thế giới
Thích Hạnh Chơn
Phật giáo do Đức Phật Thích Ca sáng lập có nguồn gốc từ Ấn Độ. Ban đầu số lượng
còn ít và nằm trong phạm vi nhỏ nên sự sinh hoạt thống nhất dưới sự chỉ dạy của
Đức Phật. Tuy nhiên, khoảng 100 năm sau Phật nhập Niết-bàn, dù chư Tăng vẫn y cứ
Pháp và Luật làm thầy hướng dẫn tu học, Tăng đoàn chia thành hai bộ phái và tiếp
tục phân thành nhiều bộ phái sau đó. Đến thời vua A Dục (khoảng thế kỷ III tr.TL),
Phật giáo bắt đầu được truyền đến các châu lục, đánh dấu quá trình toàn cầu hóa
Phật giáo.
Từ sắc thái Phật giáo nguyên thuỷ, Phật giáo đã hòa nhập và thích nghi với văn
hóa và tín ngưỡng ở những vùng đất mới, hình thành nên nét đặc trưng của Phật
giáo dân tộc, tông phái. Chính nét đặc trưng của Phật giáo dân tộc tạo nên sự đa
dạng trong cộng đồng Phật giáo. Hiện nay có ba truyền thống Phật giáo lớn có sự
khác nhau về hình thức sinh hoạt, tu tập. Đó là Bắc truyền gồm Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Việt Nam…; Nam truyền gồm Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện…; và Kim
Cang thừa (Mật tông) Tây Tạng…
Lại nữa, Phật giáo tại các quốc gia tuy thuộc cùng một truyền thống vẫn có nhiều
nét đặc trưng riêng, tạo nên bản sắc Phật giáo của quốc gia đó. Phật giáo Trung
Quốc, Nhật Bản, Việt Nam đều có nét đặc trưng riêng. Sự khác nhau đó là do con
người và điều kiện khách quan tạo thành. Bài viết sẽ nêu vài nét đặc trưng về
Phật giáo tại Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản để từ đó nhìn về Phật giáo Việt Nam
trên bản đồ Phật giáo toàn cầu. Thế giới biết đến Phật giáo Việt Nam qua điều gì
và ai là người đóng góp vào thành tựu đó trong thời hiện đại?
Những đặc trưng của Phật giáo Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản
Khi nói đến Phật giáo Ấn Độ, tất yếu chúng ta phải đề cập đến lịch sử Đức Phật,
về Phật giáo sau Phật nhập Niết-bàn gồm các kỳ kiết tập kinh, về sự phân chia bộ
phái, về các Thánh/cao tăng luận sư nổi tiếng, các tác phẩm kinh luận do Phật
thuyết và do các đệ tử nhiều đời biên soạn. Dựa vào tài liệu hiện còn, chúng ta
biết được tư tưởng Phật giáo qua các thời kỳ gồm Nguyên thuỷ, Bộ phái và Đại
thừa. Những ai muốn hiểu sâu có thể đi vào tìm hiểu, nghiên cứu chi tiết.
Từ thời vua Aśoka (A Dục), Phật giáo bắt đầu được truyền đến các nước thuộc các
châu lục. Phật giáo được truyền vào Trung Quốc khoảng thế kỷ II Tây lịch.
Các bộ kinh bằng ngôn ngữ Sanskrit (và có thể có kinh bằng ngôn ngữ khác) được
dịch sang Hán ngữ đã có sự pha trộn tư tưởng, tín ngưỡng địa phương, làm cho
Phật giáo mang màu sắc Trung Quốc. Phương pháp thiền được Đức Phật dạy trong
kinh Niệm xứ thuộc Trung bộ kinh và được Phật giáo các nước Nam
truyền thực hành cho đến ngày nay lại được các Tổ sư Trung Quốc sáng tạo thành
“sản phẩm” riêng. Không có tư liệu nào (trừ của Trung Quốc) công nhận ngài Ca
Diếp là Tổ sư của Thiền tông và các vị tổ tiếp theo cho đến vị thứ 28. Nếu đây
là sự thật thì nó phủ nhận công lao phát minh ra phương pháp thiền của Đức Phật,
và trái với lời Phật dạy là lấy Pháp và Luật làm thầy và không có việc di chúc
người kế thừa.
Phật giáo Trung Quốc đã sáng tạo ra một loại Thiền tông riêng của mình, phong
cho ngài Ca Diếp làm Sơ tổ Thiền tông và hệ thống hóa thành 28 vị Tổ tại Ấn Độ
và 5 vị Tổ tại Trung Quốc. Từ thời Tổ Huệ Năng lại phát sinh ra năm dòng thiền
lớn và tiếp tục truyền đến các nước như Việt Nam, Nhật Bản… Ngoài ra, Phật giáo
Trung Quốc cũng tạo ra 10 tông phái Phật giáo
với những đường lối tu tập đặc trưng Trung Quốc. Dù phát triển rất phong phú,
Phật giáo Trung Quốc vẫn chỉ thích hợp với người Hoa và người phương Đông nặng
về tín ngưỡng tôn giáo.
Phật giáo du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc và Hàn Quốc vào thế kỷ VI Tây lịch
nhưng Phật giáo Nhật cũng đã tạo nên nét đặc trưng riêng phù hợp với tín ngưỡng
bản địa. Phật giáo Nhật đã lập ra 13 tông phái,
trong đó, Tịnh độ Chân tông, Nhật Liên tông mang nét riêng của Phật giáo Nhật
bản.
Vào đầu thế kỷ XX, thiền sư Suzuki có công lớn trong việc giới thiệu thiền có
nguồn gốc từ Trung Quốc và Nhật Bản ra thế giới phương Tây.
Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo được truyền vào Việt Nam rất sớm, có thể trước Tây lịch, và vào thế kỷ
II Tây lịch đã hình thành và phát triển mạnh. Theo dòng lịch sử Phật giáo Việt
Nam, ban đầu có Thiền sư Khương Tăng Hội (lúc này chưa có họ Thích). Sau đó, có
các dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường đều từ Trung Quốc
truyền sang. Đến thời Trần, Việt Nam có dòng thiền Trúc Lâm do vị vua-Thiền sư
Trần Nhân Tông sáng lập và truyền thừa được 18 đời. Sau đó, dòng thiền bị gián
đoạn cho đến cuối thế kỷ XX và được Thiền sư Thích Thanh Từ phục hồi nhưng nội
dung được bổ sung thêm.
Từ thế kỷ XVII, do bất ổn chính trị tại Trung Quốc, nhiều Thiền sư người Hoa đã
truyền bá Phật giáo Trung Quốc vào Việt Nam. Từ đó Phât giáo Việt Nam, đặc biệt
từ miền Trung vào Nam, đã sinh hoạt tu tập theo khuôn mẫu Phật giáo Trung Quốc
cho đến ngày nay. Nói như thế sẽ có người phản bác nhưng thực tế chứng minh vấn
đề nêu trên là đúng về mặt xuất gia, học luật, tụng kinh, dòng thiền… Ngoại trừ
Thiền phái Trúc Lâm có phương pháp thực hành rõ ràng, ít hình thức tôn giáo tín
ngưỡng, phần còn lại chiếm đa số của Phật giáo, dù mang danh theo các dòng thiền
nhưng lại sinh hoạt nặng về tôn giáo tín ngưỡng Tịnh độ. Do đó Phật giáo Việt
Nam khó có thể phát triển ở cộng đồng Phật giáo quốc tế.
Một vấn đề được đặt ra là tại sao thiền phái Trúc Lâm do Tổ sư người Việt kế
thừa thành quả của các Tổ sư tiền bối lập ra và hiện nay được Thiền sư Thích
Thanh Từ phục hoạt đem lại kết quả tích cực cho hành giả tu học nhưng dòng thiền
ấy không thể lan tỏa rộng trong cộng đồng Phật giáo Việt Nam? Phải chăng cộng
đồng Phật giáo Việt Nam hiện nay trung thành với pháp môn của các Tổ sư người
Hoa qua hai dòng thiền Lâm Tế và Tào Động? Phải chẳng Tăng Ni Việt Nam chỉ thích
hợp với pháp tu Tịnh độ cầu nguyện và sinh hoạt tín ngưỡng? Phải chăng Phật giáo
Việt Nam chưa thấy được giá trị của dòng thiền Trúc Lâm của dân tộc Việt hay
thiền Trúc Lâm khó thực hành? Đó là những vấn đề cần nghiên cứu để tìm hướng đi
cho Phật giáo Việt Nam trong tương lai.
Đóng
góp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong việc truyền bá Phật giáo ra thế giới
Phật giáo Việt Nam do điều kiện chủ quan và khách quan không được thế giới biết
đến cho đến khi Tăng sĩ Việt Nam giới thiệu Phật giáo ra thế giới vào thế kỷ XX.
Điều kiện chủ quan là Phật giáo Việt Nam khá tương đồng với Phật giáo Trung Quốc
và tư liệu về Phật giáo Việt Nam hầu như bị mất hết. Điều kiện khách quan là
Việt Nam bị chiến tranh liên miên, Phật giáo bị các thế lực ngoại xâm muốn xóa
bỏ để thay bằng tôn giáo, tín ngưỡng khác.
Đến thế kỷ XX, một số Tăng sĩ Việt Nam du học đã viết bài giới thiệu Phật giáo
Việt Nam ra cộng đồng Phật giáo thế giới. Bên cạnh đó, sự hiện diện của cộng
đồng Phật giáo Việt Nam ở các nước cũng đóng góp vào việc giới thiệu Phật giáo
Việt Nam ra thế giới. Tuy nhiên, Phật giáo Việt Nam giới thiệu phương pháp tu
học nào cho cộng đồng thế giới? Phương pháp tu theo tín ngưỡng Tịnh độ thì khá
tương đồng với Phật giáo Trung Quốc nên khó thành công. Phương pháp hành thiền
theo dòng Lâm Tế, Tào Động thì không rõ ràng hay không hiện hữu. Phương pháp
hành thiền theo thiền phái Trúc Lâm thì có sự ảnh hưởng khiêm tốn về hiệu quả
thực tế biểu hiện qua vị Thiền sư và cộng đồng Tăng sĩ, Phật tử. Nói cách khác,
cộng đồng Phật giáo Việt Nam thực hành theo truyền thống thiền Trúc Lâm chiếm số
lượng khá khiêm tốn.
Trong tình hình đó, Phật giáo Việt Nam xuất hiện pháp môn Làng Mai do Thiền sư
Thích Nhất Hạnh sáng lập. Từ chỗ cộng đồng Phật giáo thế giới biết đến Phật giáo
Việt Nam qua lịch sử tôn giáo, tín ngưỡng và những triết lý thiền khó ứng dụng
trong môi trường mới do bị cản trở bởi ngôn ngữ và thiếu phương pháp thực hành,
họ được tiếp cận pháp môn Làng Mai với pháp tu “Hiện tại lạc trú” dựa trên nền
tảng kinh Phật là kinh Quán niệm hơi thở, kinh Niệm xứ, kinh
Người biết sống một mình.
Từ chỗ biết đến Phật giáo Việt Nam qua lý thuyết, giờ đây họ biết đến Phật giáo
Việt Nam không những qua lý thuyết tu tập mà còn qua người thật việc thật, qua
những cộng đồng tu học có kết quả thực tiễn. Nhiều người đến Làng Mai học pháp
và ứng dụng thực hành có kết quả ngay trong hiện tại. Điều đó được minh chứng
qua các khóa tu với sự tham dự của nhiều người thuộc các dân tộc, các tôn giáo
khác nhau. Ngày nay, nói đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, cộng đồng Phật giáo thế
giới không ai không biết và tất nhiên biết Thiền sư cũng tức là biết đến Phật
giáo Việt Nam, biết đến Việt Nam. Điều đáng suy ngẫm là dù pháp môn Làng Mai
thiết thực hiện tại và ít mang hình thức tín ngưỡng tôn giáo nhưng vẫn chưa được
cộng đồng Phật giáo Việt Nam khắp nơi tiếp nhận ứng dụng tu tập một cách phổ
biến.
Nhìn lại dòng chảy lịch sử Phật giáo Việt Nam chúng ta thấy rằng thiền là khái
niệm được dùng xuyên suốt từ thời Thiền sư Khương Tăng Hội đến thời Lý, Trần (có
ba dòng thiền, sau đó thống nhất thành thiền Trúc Lâm), rồi đến thời Nguyễn (có
thiền Lâm Tế và Tào Động rồi sinh sôi nhiều chi phái nhỏ) và duy trì đến nay.
Ngày nay thiền Trúc Lâm được phục hoạt và thiền Làng Mai được sáng lập nhưng số
lượng tín đồ theo hai dòng thiền trên để tu học thì còn khá khiêm tốn. Phật giáo
Việt Nam sẽ đi về đâu khi không có một pháp hành thực tiễn để làm nền tảng phát
triển?! Người ngoại quốc sẽ học gì về Phật giáo Việt Nam để ứng dụng tu tập
trong đời sống hằng ngày? Thiền Trúc Lâm, và nhất là thiền Làng Mai ví như những
viên ngọc quý nhưng có vẻ còn “xa xỉ” nên dù nó rất có giá trị cũng có rất ít
người sử dụng.