Thiền Minh sát do Mahasi Sayadaw truyền dạy
thien minh sat
Thiền Minh sát do Mahasi Sayadaw truyền dạy
Nguyên Giác dịch từ bản Anh ngữ
Lời dẫn 2021:
Sau đây là bản Việt dịch bài giảng pháp của Đại sư Mahasi Sayadaw (1904-1982)
trước các thiền gia trong buổi lễ khai thị ở Trung tâm Thiền tập Mahasi
Meditation Center, Rangoon, Miến Điện. Bài này được dịch từ tiếng Miến sang Anh
ngữ bởi Unyi Nyi, và sửa chữa lại năm 1997 bởi Đại sư Pesala.
Đại sư Mahasi Sayadaw sinh năm 1904 ở Shwebo, Miến Điện, vào chùa học từ năm sáu
tuổi, thọ giới Sa-di sáu năm sau, thọ giới Tỷ-kheo năm 1923, thi xong hết ba cấp
Kinh tạng Pāli do chính phủ khảo thí vào bốn năm sau. Đại sư tu học với nhiều
thầy ở nhiều nơi, sau cùng học pháp thiền Minh sát (Vipassana) với vị thầy nổi
tiếng Migun Jetavan Sayadaw, và sau đó tận lực truyền bá pháp môn này. Những
trung tâm thiền tập do Đại sư Mahasi Sayadaw thiết lập không chỉ ở Miến Điện, mà
còn cả ở Thái Lan, Sri Lanka, Cam-pu-chia, Ấn Độ, Nhật Bản, Indonesia, Anh Quốc,
và nhiều nước khác. Theo một bản thống kê năm 1972, tổng số thiền gia được huấn
luyện ở tất cả các trung tâm thiền này (cả ở Miến Điện và hải ngọai) đã vượt quá
con số 700.000 người.
Trong các môn đệ nổi tiếng của Đại sư có ngài Anagarika Shri Munindra, sau nhiều
năm tu học với Đại sư về kinh luật luận và thiền tập Minh sát đã về Ấn, trụ trì
một thiền viện quốc tế ở thánh địa Buddha Gaya, nơi nhiều người Âu-Mỹ sang tu
tập thiền định. Trong những người đó có một thanh niên Mỹ, Joseph Goldstein,
người sau này mở nhiều thiền đường ở Mỹ và viết nhiều sách về thiền Minh sát.
Đại sư Mahasi Sayadaw còn là người chú giải kinh luận nổi tiếng. Tính chung, Đại
sư đã in 67 cuốn sách về Phật học và về thiền tập. Đại sư Mahasi Sayadaw viên
tịch ngày 14-8-1982.
GHI NHẬN:
Phương pháp của ngài Mahasi Sayadaw nơi đây dạy phần lớn là niệm thân, trong
kinh còn gọi là Thân hành niệm. Trong kinh AN 1.575, Đức Phật nói rằng
chỉ cần tu một pháp Thân hành niệm là đủ để giải thoát. Trong bài giảng này, tuy
Đại sư tập trung phần lớn về niệm thân - như niệm hơi thở phồng và xẹp, niệm các
oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi, niệm khi ăn và uống... - nhưng cũng bao gồm cả niệm
thọ, như khi ngứa hay mỏi thì niệm ngứa hay mỏi; thực tế cũng niệm về tâm như
khi đi bộ chợt nảy ra có ý nghĩ muốn nằm cho đỡ mỏi, và khi buồn ngủ nếu niệm
về tinh tấn thì cũng hiểu là niệm pháp. Nghĩa là, tất cả thân thọ tâm pháp điều
liên hệ nhau. Tại sao Đức Phật chú trọng nhiều về thân hành niệm? Đơn giản vì
thân là cái dễ thấy nhất, dễ cảm nhận nhất, và thân cũng là nơi thọ khổ dễ hiển
lộ nhất. Khi ngồi hoài thì đau chân, khi đi bộ lâu thì mỏi, khi bụng đói, v.v.
luôn luôn thân là nơi dễ nhất để nhận ra Khổ đế. Ngài Ananda đắc quả A-la-hán là
từ niệm thân, trong bài có giải thích chi tiết điểm này.
Trong kinh SN 47.20, Đức Phật dạy rằng Thân hành niệm phải tu tập trong
tinh thần khẩn cấp và nguy cấp: y hệt như phải đội bát đầy dầu trên đầu, đi bộ
vòng quanh một đám đông đang xem cô hoa hậu múa hát quyến rũ, hễ nghiêng đổ một
giọt dầu ra ngoài là sẽ bị người đang dí thanh kiếm nơi cổ mình chém đầu. Thân
hành niệm phải tu như thế, nghĩa là luôn luôn thấy rằng mình đang đứng bên bờ
sinh tử, sơ suất là mất mạng.
Xin mạn phép góp ý rằng phương pháp thiền Thân hành niệm vừa dẫn có thể xem
tương đương bên Thiền tông Việt Nam: niệm tâm vô trụ, tức là niệm tâm không chỗ
trụ. Bởi vì trong khi đi quanh cô hoa hậu đang múa hát quyến rũ, nếu tâm chúng
ta bất chợt trụ vào giọng hát hay nhan sắc của cô, thì dầu trên đầu sẽ đổ và sẽ
bị chém đầu. Nếu tâm chúng ta bất chợt trụ vào cái ngứa bên chân trái thì chân
phải chúng ta có thể vấp. Nếu tâm chúng ta bất chợt trụ vào sân hận vì bị đẩy
tới chỗ phải bước đi dưới mũi kiếm nơi cổ, thì sẽ giận người này, bực dọc người
kia, sẽ tán tâm và dễ mất mạng. Nghĩa là, thân hành niệm trong tình hình khẩn
cấp với bát dầu trên đầu cũng là chú tâm niệm toàn thân và toàn cảnh, tức là
niệm pháp giới, còn gọi là niệm nội-ngoại-xứ, và là niệm vô trụ của Thiền tông.
Nghĩa là, chú tâm biết những gì tới với thân-tâm nhưng không trụ tâm vào đâu, y
hệt như giọt nước chảy trên lá sen là chớp nhoáng biến mất. Tu một giờ là an vui
một giờ, tu một ngày là hạnh phúc một ngày. Xin mời gọi tất cả độc giả cùng tinh
tấn tu học.
Sau đây là bản dịch:
Pháp hành thiền Minh sát là nỗ lực để hiểu một cách đúng đắn bản chất hiện tượng
tinh thần và thể lý trong thân thể người tu tập. Hiện tượng thể lý là những việc
hay vật mà người tu nhận thức một cách rõ ràng quanh mình và bên trong mình.
Toàn thể thân xác người tu gồm một nhóm các phẩm chất thể lý. Hiện tượng tinh
thần là hoạt động của ý thức hay cái biết. Những điều này được nhận thức một
cách rõ ràng bất cứ khi nào các pháp được nhìn thấy, được nghe, được ngửi, được
nếm, được chạm xúc, hay được nghĩ tới. Chúng ta phải tỉnh thức về các hiện tượng
tinh thần này bằng cách quan sát chúng và ghi nhận [niệm về] chúng như: “[đang]
thấy, thấy”, “nghe, nghe”, “ngửi, ngửi”, “nếm, nếm”, “sờ, sờ”, hay “nghĩ, nghĩ”.
Mỗi lần bạn thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ, hay suy nghĩ, bạn hãy niệm [ghi nhận] về
việc đó. Tuy nhiên, khi mới tập, bạn không có thể niệm tất cả các việc đó. Do
đó, bạn nên bắt đầu bằng cách niệm những việc dễ dàng nhận thấy và dễ dàng nhận
thức.
Với từng hơi thở, bụng của bạn phồng lên và xẹp xuống - chuyển động này luôn
luôn là hiển nhiên. Đây là phẩm chất thể lý được biết như phần tử của chuyển
động. Bạn nên bắt đầu bằng cách niệm [về] chuyển động này, điều có thể làm được
bằng cách để tâm quan sát vùng bụng. Bạn sẽ thấy bụng phồng lên khi bạn hít vào,
và xẹp xuống khi bạn thở ra. Việc phồng lên nên được niệm trong tâm là “phồng”,
và việc xẹp xuống thì niệm là “xẹp”. Nếu chuyển động không được nhận ra rõ ràng,
bạn cứ đặt lòng bàn tay lên bụng để nhận ra. Đừng đổi cách bạn thở. Cũng đừng
thở chậm lại hay thở mau hơn. Cũng đừng thở quá mạnh bạo gấp gáp. Bạn sẽ mệt mỏi
nếu bạn đổi cách bạn thở. Hãy thở đều đặn như bình thường, và hãy niệm nơi bụng
đang phồng và xẹp. Hãy niệm trong tâm, đừng nói thành lời.
Trong thiền Minh sát, điều bạn gọi tên hay nói thì không quan trọng. Điều thực
sự quan trọng chính là biết, hay nhận thức. Trong khi niệm bụng phồng lên, hãy
làm như thế từ lúc khởi đầu cho tới khi hết chuyển động [phồng] này, y hệt như
bạn đang nhìn nó bằng mắt. Hãy làm tương tự với chuyển động xẹp. Sự chuyển động
[phồng, xẹp] và nhận biết về nó nên xảy ra cùng lúc, hệt như một viên đá được
ném trúng mục tiêu. Tương tự với chuyển động xẹp.
Tâm của bạn có thể lang thang chạy lạc nơi khác, trong khi bạn niệm về chuyển
động của bụng. Điều này cũng phải được tâm ghi nhận rằng, “[niệm] lạc, lạc
[rồi].” Khi điều này đã được niệm một lần hay hai lần thì tâm ngưng lang thang
chạy lạc, rồi bạn trở lại niệm về chuyển động phồng, xẹp của bụng. Nếu tâm chạy
tới nơi khác, hãy ghi nhận là “[niệm] tới, tới”. Rồi thì hãy quay về phồng, xẹp
của bụng. Nếu bạn chợt nghĩ tới việc gặp một người nào thì hãy niệm là “gặp,
gặp”. Rồi hãy trở về phồng, xẹp. Nếu bạn chợt nghĩ tới chuyện gặp và nói chuyện
với ai đó, thì hãy niệm “nói, nói”.
Tóm lại, bất cứ những gì mà ý nghĩ và trí nhớ xảy ra, đều hãy được niệm [ghi
nhận]. Nếu bạn tưởng tượng, hãy niệm là “tưởng, tưởng”. Nếu bạn suy nghĩ, hãy
niệm “nghĩ, nghĩ”. Nếu bạn mưu tính kế hoạch, hãy niệm “tính, tính”. Nếu bạn
nhận thức, hãy niệm “thức, thức”. Nếu bạn đang nhớ, hãy niệm “nhớ, nhớ”. Nếu bạn
thấy hạnh phúc vui vẻ, hãy niệm “vui, vui”. Nếu bạn thấy chán nản, hãy niệm
“chán, chán”. Nếu bạn cảm thấy hài lòng ưa thích, hãy niệm “thích, thích”. Nếu
bạn cảm thấy phiền lòng, hãy niệm “phiền, phiền”. Ghi nhận tất cả các hoạt động
của ý thức được gọi là cittanupassana (quán tâm).
Bởi vì chúng ta không ghi nhận được về các sinh hoạt này của ý thức, chúng ta có
khuynh hướng nhận diện chúng với một người hay một cá thể. Chúng ta có khuynh
hướng nghĩ rằng đó là “tôi” đang hình dung, nghĩ tưởng, hoạch định, biết về hay
nhận thức. Chúng ta nghĩ rằng có một người, mà người này từ thời thơ ấu trở đi,
đã đang sống và nghĩ ngợi. Thực sự, không có ai như vậy hiện hữu. Thay vì vậy,
chỉ có những hoạt động ý thức nối tiếp liền nhau. Đó là tại sao chúng ta phải
niệm về các hoạt động ý thức này, và biết chúng như chúng là. Cho nên, chúng ta
phải nhận biết từng và tất cả các hoạt động ý thức khi nó dấy khởi. Khi niệm như
thế, nó có khuynh hướng biến mất đi. Rồi chúng ta trở lại niệm phồng, xẹp nơi
bụng.
Khi bạn phải ngồi thiền tập trong một thời gian lâu, cảm giác tê cứng và hơi
nóng sẽ khởi lên trong cơ thể bạn. Những điều này cũng phải được [niệm] ghi nhận
kỹ càng. Tương tự với cảm thọ về đau đớn và mỏi mệt. Tất cả những cảm thọ này là
khổ (cảm giác không thỏa mãn), và niệm [ghi nhận] về chúng là niệm khổ thọ. Bỏ
qua hay không ghi nhận được các cảm thọ đó sẽ làm bạn nghĩ, “Tôi tê cứng rồi,
tôi đang cảm thấy nóng, tôi đau đớn này. Tôi mới hồi nảy còn thoải mái. Bây giờ
tôi chịu khổ với các cảm thọ khó chịu này”. Việc đồng nhất các cảm thọ này với
tự ngã là nhầm lẫn rồi. Thực sự không có cái “tôi” nào liên hệ tới, mà chỉ là
một chuỗi liên tục các cảm thọ khó chịu nối tiếp nhau.
Nó y hệt như một chuỗi nối tiếp các [chu kỳ] dao động điện khí nối nhau và làm
bật sáng ngọn đèn điện. Mỗi lần các chạm xúc khó chịu tới với cơ thể, các cảm
thọ khó chịu khởi lên cái này sau cái kia. Những cảm thọ này nên được niệm [nhận
ra] kỹ càng và chú tâm, cho dù chúng là cảm thọ về sự tê cứng, về hơi nóng, hay
về đau đớn. Lúc mới đầu tập thiền, các cảm thọ này có thể có khuynh hướng tăng
thêm và dẫn tới ước muốn thay đổi tư thế ngồi của người tu. Ước muốn đó nên được
[niệm] ghi nhận, sau đó hành giả nên trở về việc niệm các cảm thọ về sự tê cứng,
về hơi nóng, v.v.
Có một câu nói, “Kiên nhẫn dẫn tới Niết-bàn”. Câu nói này đặc biệt liên hệ tới
tu tập thiền định. Bạn phải kiên nhẫn thiền tập. Nếu bạn chuyển hay đổi tư thế
quá thường xuyên bởi vì bạn không thể chịu nổi cảm thọ về sự tê cứng hay hơi
nóng phát khởi thì đại định không thể hình thành. Nếu không có định, thì sẽ
không có huệ, và không thể có thành đạo, mà quả chính là Niết-bàn. Đó là lý do
vì sao cần kiên nhẫn trong thiền tập. Đó hầu như là kiên nhẫn với các cảm thọ
khó chịu trong cơ thể như sự tê cứng, hơi nóng, sự đau đớn và các cảm thọ khó
chịu khác. Khi xuất hiện các cảm thọ như thế, bạn đừng ngay lập tức đổi thế
ngồi. Bạn nên tiếp tục một cách kiên nhẫn, chỉ niệm nó như là “tê, tê” hay
“nóng, nóng”. Các cảm thọ khó chịu trung bình cũng sẽ biến mất nếu bạn niệm [ghi
nhận] chúng một cách kiên nhẫn. Khi định lực vững vàng, thì ngay cả các cảm thọ
căng hơn cũng có khuynh hướng biến mất. Rồi thì bạn trở lại niệm về bụng phồng,
xẹp.
Dĩ nhiên, bạn sẽ phải đổi thế ngồi nếu cảm thọ không tan biến ngay cả sau khi
niệm chúng một thời gian lâu, hay là khi chúng trở thành hết chịu nổi. Rồi thì
bạn nên bắt đầu bằng cách niệm “muốn thay đổi, muốn thay đổi”. Nếu bạn đưa cánh
tay lên, hãy niệm rằng “lên, lên”. Nếu bạn cử động, hãy niệm rằng “động, động”.
Thay đổi này nên làm cho dịu dàng, và niệm như là “lên, lên”, “động, động” và
“chạm, chạm”.
Nếu thân bạn nghiêng ngả, hãy niệm rằng “nghiêng, nghiêng”. Nếu bạn nhấc chân
lên, hãy niệm rằng “lên, lên”. Nếu bạn cử động nó, hãy niệm rằng “động, động”.
Nếu bạn thả nó xuống, hãy niệm rằng “thả, thả”. Khi không còn động chuyển nữa,
hãy trở lại niệm về phồng, xẹp nơi bụng. Đừng để cho có khoảng cách nào, mà cứ
để có liên tục giữa niệm trước và niệm kế liền đó, giữa trạng thái định trước và
trạng thái định kế liền đó, giữa một tuệ trước và một tuệ kế tiếp liền đó. Chỉ
khi đó mới có các bước tiến liên tục trong hiểu biết của người tu. Kiến thức về
đạo và quả chỉ thành đạt được khi nào có các đà tiến liên tục này. Tiến trình
thiền tập thì y hệt như tiến trình làm ra lửa bằng cách tận lực và liên tục chà
xát hai thanh gỗ vào nhau để tạo ra đủ hơi nóng mà bật ra lửa.
Trong cùng cách đó, hành vi niệm [ghi nhận] trong thiền Minh sát phải được liên
tục và không ngừng nghỉ, không có bất kỳ khoảng cách nào giữa việc niệm, bất kể
có hiện tượng nào sinh khởi. Thí dụ, nếu cảm thọ về ngứa khởi lên và bạn muốn
gãi bởi vì nó rất khó chịu đựng, thì cả cảm thọ và ước muốn gãi cũng phải được
niệm tới, mà không tức khắc xóa bỏ cảm thọ bằng cách gãi.
Nếu bạn kiên trì chống lại, cảm thọ ngứa một cách tổng quát sẽ biến mất, trường
hợp này thì bạn lại trở về niệm phồng, xẹp nơi bụng. Nếu ngứa không biến mất,
bạn có thể gãi cho hết, nhưng trước tiên là ước muốn làm thế phải được niệm ghi
nhận. Tất cả các chuyển động trong tiến trình gãi ngứa phải được niệm ghi nhận,
đặc biệt là các chuyển động sờ, kéo, đẩy và gãi, rồi lại trở về niệm phồng, xẹp
nơi bụng.
Bất cứ khi nào bạn đổi thế ngồi, hãy bắt đầu bằng cách niệm về ý định hay ước
muốn thay đổi, và hãy niệm từng chuyển động, thí dụ như việc nhấc lên từ tư thế
ngồi, nâng cánh tay, cử động và duỗi cánh tay. Bạn nên niệm các chuyển động cùng
lúc với khi đang làm các chuyển động đó. Khi cơ thể bạn nghiêng về phía trước,
hãy niệm ghi nhận nó. Khi bạn nhấc lên, cơ thể trở thành nhẹ và nhấc lên. Hãy
tập trung tâm bạn vào điều này, bạn nên nhẹ nhàng niệm như là “lên, lên”.
Một thiền gia sẽ cư xử hệt như một người yếu đuối vô tích sự. Những người sức
khỏe bình thường nhấc lên một cách dễ dàng và mau chóng, hay đột ngột. Người yếu
bệnh thì không như thế; họ làm điều đó một cách chậm chạp và dịu dàng. Cũng
tương tự như thế với người đau lưng; họ nhấc lên dịu dàng, nếu không thì lưng
lại thương tổn và làm đau đớn. Những thiền gia cũng như thế. Họ sẽ đổi thế ngồi
một cách dịu dàng và từ từ; chỉ lúc đó thì sự tỉnh thức, định và huệ hiển lộ rõ
ràng. Do vậy, hãy khởi đầu với các cử động dịu dàng và từ từ. Khi nhấc [người]
lên, hãy làm như thế một cách dịu dàng như người yếu bệnh, trong cùng lúc niệm
“lên, lên”. Không chỉ như thế, xuyên qua mắt nhìn, bạn phải làm y hệt như đang
bị mù. Tương tự, với khi tai nghe. Trong khi thiền tập, quan tâm của bạn chỉ là
niệm ghi nhận thôi. Cái gì bạn thấy và nghe không phải là quan tâm của bạn. Cho
nên, bất cứ thứ gì kỳ lạ hay bất ngờ mà bạn có thể thấy hay nghe, bạn phải xem
như bạn không thấy hay không nghe chúng, mà chỉ đơn giản niệm một cách cẩn
trọng.
Khi làm các chuyển động cơ thể, bạn hãy làm thế một cách chậm rãi, nhẹ nhàng cử
động tay và chân, co lại hay duỗi chúng ra, nghiêng đầu xuống hay nhấc đầu lên.
Khi nhấc lên từ tư thế ngồi, bạn hãy làm thế từ từ, niệm rằng “lên, lên”. Khi
thẳng người và đứng dậy, hãy niệm “đứng, đứng”. Khi nhìn qua đây và kia, hãy
niệm rằng “nhìn, thấy”. Khi đi bộ, hãy niệm các bước, cho dù chúng ở bàn chân
phải hay trái. Bạn phải ý thức về tất cả các cử động nối tiếp nhau liên hệ, từ
việc nhấc bàn chân cho tới đặt bàn chân xuống. Hãy niệm ghi nhận từng bước chân,
dù với bàn chân phải hay trái. Đó là cách niệm, khi bạn đi bộ mau.
Thế là đủ, nếu bạn niệm như thế khi đi bộ mau và đi bộ khoảng cách xa. Khi đi bộ
chậm, hay bước lên và xuống, có ba giai đoạn nên được niệm từng bước: khi bàn
chân nhấc lên, khi bàn chân đưa tới trước, và khi bàn chân đặt xuống. Hãy bắt
đầu với niệm về các chuyển động nhấc lên và đặt xuống. Bạn phải tỉnh thức trọn
vẹn với việc nhấc bàn chân lên. Tương tự, khi bàn chân đặt xuống, bạn phải tỉnh
thức trọn vẹn về việc bàn chân đặt xuống “nặng nề”.
Bạn phải đi bộ trong khi niệm “lên, xuống” với từng bước chân. Việc niệm này sẽ
dễ dàng hơn, sau khoảng hai ngày [tập]. Rồi, hãy tiếp tục niệm ba chuyển động
như mô tả trên, như là “lên, tới [trước], xuống”. Lúc mới tập, có thể niệm ghi
nhận một hay hai chuyển động là đủ, do vậy niệm “[bước] phải, trái” khi đi bộ
nhanh, và “[chân] lên, xuống” khi đi bộ chậm rãi. Nếu khi đi bộ như thế, bạn
muốn ngồi xuống, hãy niệm rằng “muốn [ngồi], muốn”. Khi ngồi xuống, bạn hãy niệm
một cách chú tâm việc hạ xuống “nặng nề” của cơ thể bạn.
Khi bạn đã ngồi, hãy niệm các chuyển động liên hệ khi sắp xếp cánh tay và chân.
Khi không có chuyển động như thế của cơ thể, hãy niệm về sự phồng và xẹp nơi
bụng. Nếu, trong khi niệm như thế, sự tê cứng hay cảm giác về hơi nóng khởi lên
từ bất kỳ nơi nào trong cơ thể, hãy niệm ghi nhận chúng. Rồi trở về lại niệm
“phồng, xẹp”. Nếu chợt ước muốn nằm xuống, hãy niệm về nó [ước muốn] và niệm các
chuyển động của chân và tay trong khi bạn nằm xuống. Việc nhấc tay lên, cử động
tay, đặt cùi chõ lên sàn, nghiêng cơ thể, duỗi chân ra, ngả người xuống trong
khi bạn chậm rãi sửa soạn nằm - tất cả các chuyển động đều phải được niệm.
Niệm như thế trong khi nằm xuống thì rất quan trọng. Trong khi làm chuyển động
này (tức là nằm xuống), bạn có thể đạt được trí tuệ biện biệt (tức là tuệ hiểu
rõ về đạo và quả). Khi định và tuệ mạnh mẽ, trí tuệ này có thể tới bất kỳ lúc
nào. Nó có thể khởi lên trong một cái “co lại” của cánh tay, hay trong một cái
“duỗi ra” của cánh tay. Đó là cách ngài Ananda đã trở thành A-la-hán.
Ngài Ananda lúc đó đang ráo riết tìm cách thành tựu Thánh quả A-la-hán trong đêm
trước ngày Đại hội Kết tập Kinh điển lần thứ nhất. Ngài đang tu tập cả đêm một
hình thức thiền Minh sát có tên là kayagatasati, niệm các bước chân của
ngài, phải và trái, nâng lên, đưa tới trước và đặt bàn chân xuống; niệm ghi
nhận, từng sự kiện, ước muốn đi bộ và chuyển động thể lý liên hệ tới việc đi bộ.
Mặc dù cứ tu tập như thế cho tới khi trời gần sáng, ngài vẫn chưa chứng quả
A-la-hán. Nhận thấy rằng ngài đã thiền hành (thiền đi bộ) quá nhiều và rằng, để
làm quân bình sức định và nỗ lực, ngài nên tập thiền nằm một chút, ngài mới bước
vào phòng. Ngài ngồi trên giường và rồi nằm xuống. Trong khi làm như thế và
niệm, “nằm, nằm”, ngài chứng thánh quả A-la-hán trong chớp nhoáng.
Trước khi nằm xuống, ngài Ananda chỉ là một vị Nhập lưu (Tu-đà-hoàn). Từ giai
đoạn của vị Nhập lưu, ngài đạt tới giai đoạn Nhất lai (Tư-đà-hàm), rồi quả Bất
lai (A-na-hàm) và rồi A-la-hán (giai đoạn cuối của Thánh đạo). Đạt liền ba giai
đoạn Thánh quả liên tiếp như thế chỉ trong một khoảnh khắc. Hãy nhớ tới trường
hợp ngài Ananda chứng quả A-la-hán như thế. Thành đạo như thế có thể tới bất kỳ
lúc nào và không cần thời gian lâu dài nào.
Đó là lý do vì sao các thiền gia nên luôn luôn giữ niệm ghi nhận miên mật. Bạn
không nên lười biếng, nghĩ rằng, “chút thời gian [lười] này cũng không hề gì bao
nhiêu”. Tất cả các chuyển động liên hệ trong việc nằm xuống và sắp xếp tay và
chân nên được niệm cẩn trọng và liên tục. Nếu không có chuyển động, hãy trở về
niệm phồng, xẹp nơi bụng. Ngay cả khi đã trễ và tới giờ ngủ, thiền gia không nên
ngừng niệm. Một thiền gia thực sự nghiêm túc và nhiệt tâm nên tu tập tỉnh thức
ngay cả khi vào giấc ngủ. Bạn nên thiền tập cho tới khi bạn buồn ngủ. Khi bạn
cảm thấy buồn ngủ, bạn nên niệm là “buồn ngủ, buồn ngủ”, nếu các mi mắt sụp
xuống, hãy niệm “[sụp] xuống, xuống”; nếu mi mắt nặng nề trì xuống, hãy niệm
“nặng, nặng”; nếu hai mắt tỉnh ra, hãy niệm “tỉnh, tỉnh”. Niệm như thế, cơn buồn
ngủ có thể trôi qua, và mắt trở lại sáng tỏ ra. Rồi thì bạn hãy niệm “[thấy] rõ,
rõ” và tiếp tục niệm phồng, xẹp nơi bụng.
Tuy nhiên, cho dù có thể quyết tâm thế nào, nếu cơn buồn ngủ thực đã tới, thì
bạn sẽ ngủ gục. Không khó khăn gì để ngủ gục; thực sự, nó dễ lắm. Nếu bạn thiền
tập trong tư thế nằm, bạn sẽ mau buồn ngủ và dễ dàng ngủ gục. Đó là lý do vì sao
người mới tập không nên thiền tập quá nhiều ở tư thế nằm; họ nên thiền tập nhiều
hơn ở các tư thế ngồi và đi bộ. Tuy nhiên, khi đã trễ và tới giờ ngủ, bạn nên
thiền tập trong tư thế nằm, niệm chuyển động phồng và xẹp của bụng. Rồi bạn sẽ
tự nhiên vào giấc ngủ.
Thời gian bạn ngủ là thời gian nghỉ ngơi, nhưng thiền gia nghiêm túc thực sự thì
nên hạn chế giấc ngủ khoảng bốn giờ đồng hồ. Đây là “khoảng thời gian nửa đêm”
mà Phật cho phép. Giấc ngủ bốn giờ thì đủ rồi. Nếu người mới tu nghĩ rằng bốn
giờ ngủ không đủ cho sức khỏe, bạn có thể nới ra năm hay sáu giờ đồng hồ. Giấc
ngủ dài sáu giờ rõ ràng là đủ.
Khi bạn thức dậy, bạn nên tức khắc tiếp tục niệm ghi nhận. Thiền gia nào thực sự
muốn thành đạo quả thì chỉ rời thiền tập trong khi ngủ. Vào những lúc khác,
trong mọi thời đều phải niệm liên tục và không dễ ngươi. Đó là lý do vì sao,
ngay khi bạn thức dậy, bạn nên niệm liền trạng thái thức dậy của tâm là “thức,
thức”. Nếu bạn chưa thể tỉnh lúc đó, bạn nên bắt đầu với niệm về phồng, xẹp nơi
bụng.
Nếu bạn dự tính dậy ra khỏi giường, bạn nên niệm “tính thức dậy, tính thức dậy”.
Rồi bạn lúc đó nên niệm chuyển động khi bạn cử động tay và chân. Khi bạn ngẩng
đầu dậy, bạn hãy niệm là “dậy, dậy”. Khi bạn ngồi, hãy niệm “ngồi, ngồi”. Khi
bạn làm bất kỳ chuyển động nào với tay và chân, tất cả chuyển động đó cũng nên
được niệm. Nếu không có gì thay đổi như thế, bạn nên trở về niệm phồng, xẹp nơi
bụng.
Bạn nên niệm khi bạn rửa mặt, và khi bạn tắm. Vì các chuyển động liên hệ trong
các việc này khá nhanh, niệm được càng nhiều chuyển động càng tốt. Rồi thì các
việc như mặc áo, sắp xếp giường, mở và đóng cửa; tất cả việc này cũng nên niệm
càng chính xác càng tốt.
Khi bạn vào bữa ăn và nhìn vào bàn, bạn nên niệm “nhìn, thấy, nhìn, thấy”. Khi
bạn duỗi tay về hướng thực phẩm, sờ nó, lấy về, đón lên và đưa vào miệng,
nghiêng đầu xuống và đưa vào miệng, thả tay xuống và ngâng đầu lên lại, tất cả
các chuyển động này nên được niệm đúng lúc. (Cách niệm này là theo kiểu ăn của
người Miến Điện. Những người sử dụng nĩa, muỗng hay đũa nên niệm các chuyển động
theo cách thích nghi).
Khi bạn nhai thức ăn, bạn nên niệm là “nhai, nhai”. Khi bạn nhận biết vị của
thức ăn, hãy niệm là “biết, biết”. Khi bạn nuốt thức ăn, khi thức ăn trôi vào
cổ, bạn nên niệm tất cả các việc này. Đó là cách thiền gia nên niệm khi ăn từng
miếng thức ăn. Khi bạn dùng canh (soup), tất cả chuyển động liên hệ như duỗi
tay, cầm muỗng, múc lên, v.v. tất cả đều nên được niệm. Người mới tu đa phần
quên niệm nhiều việc, nhưng bạn phải quyết tâm niệm hết các chuyển động đó. Dĩ
nhiên, bạn không thể làm hết được, nhưng khi định lực của bạn sâu thêm, bạn sẽ
có thể niệm tất cả các việc này một cách chính xác.
Tôi đã nói quá nhiều việc mà thiền gia cần phải niệm, nhưng nói ngắn gọn, chỉ có
vài điều để nhớ. Khi đi bộ nhanh, hãy niệm là “[bước] phải, trái”, và “[nhấc
chân] lên, [hạ] xuống” khi đi bộ chậm rãi. Khi ngồi một cách lặng lẽ, hãy niệm
phồng và xẹp nơi bụng. Hãy niệm y hệt như thế khi bạn nằm xuống, nếu không có gì
đặc biệt để niệm. Trong khi niệm như thế, và nếu tâm thức lang thang, hãy niệm
về các niệm sinh khởi trong tâm. Rồi hãy trở về niệm phồng và xẹp nơi bụng. Rồi
cũng niệm về cảm thọ tê cứng, đau đớn, nhức mỏi và ngứa nếu chúng khởi lên. Rồi
trở về niệm phồng, xẹp nơi bụng. Cũng hãy niệm, khi chúng khởi lên, về các
chuyển động co lại, duỗi ra và di động tứ chi, việc nghiêng và ngẩng đầu, việc
nghiêng và thẳng người ra. Rồi hãy trở về niệm phồng, xẹp nơi bụng.
Khi bạn tiếp tục niệm như thế, bạn sẽ có thể niệm nhiều hơn các chuyển động này.
Vào lúc đầu, khi tâm lang thang nơi này nơi kia, bạn có thể bỏ sót nhiều thứ,
nhưng bạn không nên nản lòng. Ai mới tập cũng gặp khó khăn như thế, nhưng khi
bạn trở thành khéo léo hơn, bạn sẽ [nhận] biết tất cả các niệm lang thang cho
tới khi, thực vậy, tâm không còn lang thang nữa. Rồi thì tâm được hướng vào đối
tượng quan sát, niệm tỉnh thức trở thành gần như đồng thời với đối tượng quan
sát. Nói cách khác, chuyển động phồng lên của bụng xảy ra đồng thời với niệm về
phồng lên, và tương tự với chuyển động xẹp xuống của bụng.
Đối tượng vật lý, và hành vi niệm [ghi nhận về đối tựơng đó] xảy ra như một cặp.
Trong khi xảy ra như thế, không có ai hay cá nhân nào liên hệ, chỉ có đối tượng
vật lý và hành vi niệm về nó, xảy ra đồng thời. Thiền gia sẽ, đúng lúc, kinh
nghiệm những việc xảy ra đó - chính tự mình thực chứng. Trong khi niệm phồng và
xẹp nơi bụng, bạn sẽ phân biệt sự phồng bụng như hiện tượng vật lý, và hành vi
niệm về nó như hiện tượng tinh thần; tương tự, đối với sự xẹp bụng xuống. Do vậy,
thiền gia sẽ nhận ra rõ ràng sự xảy ra đồng thời theo cặp song song của các hiện
tượng tâm-vật lý này.
Với từng hành vi niệm ghi nhận, thiền gia sẽ biết rõ ràng rằng chỉ có phẩm chất
vật thể (đang là đối tượng của ý thức chú tâm) và phẩm chất tinh thần đang niệm
ghi nhận về nó (đối tựơng vật thể đó). Sự hiểu biết phân biệt này được gọi là
tuệ phân biệt về tâm và vật, cũng là tuệ khởi đầu của tuệ minh sát (insight
knowledge, vipassana-nana). Điều quan trọng là phải có tuệ này một cách đúng
đắn. Khi thiền gia tiếp tục, tuệ này sẽ được theo sau bởi tuệ phân biệt nhân
duyên.
Trong khi bạn tiếp tục niệm [ghi nhận], bạn sẽ tự thấy rằng cái gì khởi lên đều
biến đi liền chút xíu sau đó. Người bình thường vẫn tin rằng cả hai hiện tượng
vật lý và tinh thần cứ hiện hữu hoài như thế, tức là, [có] từ lúc trẻ thơ cho
tới khi trưởng thành. Thực sự, không phải như thế. Không có hiện tượng nào tồn
tại mãi mãi. Tất cả các hiện tượng đều sinh [khởi] và diệt [mất] quá mau chóng,
tới nổi chúng không thể tồn tại ngay cả trong một cái chớp mắt. Bạn sẽ biết bằng
thực chứng như thế, khi bạn tiếp tục niệm [ghi nhận]. Rồi bạn sẽ thấy đặc tính
vô thường của tất cả các hiện tượng như thế. Điều này gọi là tuệ giác về tính vô
thường (aniccanupassana-nana).
Kế tiếp sau tuệ giác này là tuệ giác về khổ (dukkhanupassana-nana), nhận
thực rằng tất cả các pháp vô thường đều là đau khổ. Thiền gia cũng nhiều phần sẽ
gặp tất cả các lọai trở ngại [bất như ý] trong cơ thể, mà cơ thể chỉ là kết hợp
các phần tử của đau khổ. Đây cũng gọi là tuệ giác về khổ. Kế tiếp, thiền gia sẽ
nhận ra rằng tất cả các hiện tượng tâm - vật đang xảy ra theo sự hòa hợp riêng
của chúng, không theo ý chí của bất kỳ ai và cũng không nằm trong quyền kiểm
soát của ai. Đó chính là hiện tượng vô ngã, tức là không có một tự ngã [cái tôi]
nào. Nhận thức này gọi là tuệ giác về vô ngã (anattanupassana-nana).
Trong khi bạn tiếp tục thiền tập, bạn sẽ chứng ngộ chắc thật rằng tất cả các
hiện tượng này là vô thường, khổ và vô ngã, bạn sẽ thành tựu Niết-bàn. Từ xưa
tới giờ tất cả các vị Phật, A-la-hán và Thánh nhân đã chứng nhập Niết-bàn bằng
con đường này. Tất cả các thiền gia nên nhận thức rằng chính các bạn bây giờ
đang trên con đường quán niệm (satipattana), để hoàn tất ước nguyện của
các bạn nhằm thành tựu tuệ giác về đạo, về quả và về Niết-bàn, theo sau sự
trưởng dưỡng chín mùi các ba-la-mật. Các bạn sẽ hạnh phúc với viễn ảnh thực
chứng sự vắng lặng cao quý, mà sự vắng lặng này có được là nhờ định lực và nhờ
tuệ giác siêu việt - trước giờ đã trải qua bởi chư Phật, A-la-hán và Thánh nhân
- mà chính các bạn trước giờ chưa từng trải qua. Sẽ không có lâu xa gì trước khi
các bạn tự kinh nghiệm về tuệ giác này. Thực sự, nó có thể lâu chỉ trong một
tháng hay hai mươi ngày thiền tập. Những bạn nào đã thực hiện xuất sắc các pháp
ba-la-mật, thì có thể chứng đạo chỉ trong vòng bảy ngày.
Do vậy, bạn hãy an vui trong niềm tin rằng bạn sẽ thành tựu các tuệ giác này
trong thời gian nói trên, và rằng bạn sẽ được giải thoát khỏi các nghi ngờ và
ngã chấp (personality-belief), và do vậy được thoát khỏi hiểm nguy tái
sinh vào các cõi thấp. Bạn hãy tiếp tục thiền tập một cách lạc quan với niềm tin
này.
Xin chúc lành cho tất cả các bạn tu tập thiền định tốt đẹp và mau chóng thành
đạt Niết-bàn mà chư Phật, A-la-hán và Thánh nhân đã thành đạt!
Lành thay! Lành thay! Lành thay!