Lý tưởng giải thoát trong nhà Phật
lý tưởng giải thoát trong nhà Ph
lý tưởng giải thoát trong nhà Phật
Thích Minh Thành
Bằng sự tu tập lâu dài vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục thiết vi hay
sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối
cùng là sự giải thoát hoàn toàn.
Khái niệm “giải thoát” gợi lên sự hiện hữu của ít nhất là ba thực thể: Một là
có một sinh thể A có cảm xúc, có cảm nhận; hai là có một nơi chốn B có tính chất
ràng buộc, hạn chế, áp bức, đau khổ; ba là có một nơi chốn C có tính chất tự do,
thoải mái, ít đau khổ hay không còn đau khổ. Giải thoát có nghĩa căn bản là sinh
thể A đang ở chốn B di chuyển sang chốn C. Khi sinh thể A còn ở trong chốn B thì
nhân gian có thành ngữ “Cá chậu chim lồng”. Khi sinh thể A rời khỏi chốn B và
đi vào chốn C thì có thành ngữ “Tháo cũi sổ lồng”. Nghi thức phóng sinh là làm
cho con cá A đang ở trong chậu B và đang được thả vào thế giới tự do C; con chim
A đang ở trong lồng B và đang được thả vào bầu trời C. Nghi thức phóng sinh là
một pháp tu được nhiều người theo Phật giáo thực hành thường xuyên để tạo
phúc đức cho bản thân và cho con cháu.
Trong thế giới của loài người thì không phải là lồng và chậu mà là nhà tù và
xiềng xích đủ kiểu đủ dạng và nhiều vô kể. Tại Việt Nam hàng năm vào dịp lễ tết,
vị lãnh đạo cao nhất và những cấp có thẩm quyền khác đã thực hiện việc giải
thoát ấy dưới nhiều tầng nghĩa khác nhau.
Ngoài ý niệm về những sinh thể A, lồng chậu B và trời đất rừng biển bao la C,
mang tính vật lý, Phật giáo còn có ý niệm về những linh thể A, cảnh giới bị
ràng buộc B và cảnh giới giải thoát C. Cả ba thực thể này người viết tạm gọi là
có tính phi-vật-lý trong thế giới nhị phân đối đãi. Rời khỏi thế giới nhị phân
rạch ròi giữa vật lý và phi vật lý thì ta có một cái nhìn dung thông thú vị.
Với cái nhìn ấy Phật giáo thấy sinh thể A có thể đang ở một trong 6 cảnh giới B
mà sinh thể A ấy có thể ý thức được hay không ý thức được. Đa số con người dù
thuộc Phật giáo hay thuộc những hệ thống khác thì không ý thức được mình đang
ở cảnh giới nào trong mỗi lúc. Thuật ngữ nhà Phật gọi trạng thái không ý thức
ấy là vô minh, nhà Thiền thì gọi là Thất niệm. Thiểu số con người ý thức được
thì sẽ khởi tâm hướng đến những cảnh giới giải thoát cao trên mà người viết ký
hiệu là C.
Sáu cảnh giới gồm:
1. Cảnh giới địa ngục.
2. Cảnh giới ngạ quỷ.
3. Cảnh giới súc sinh.
4. Cảnh giới a-tu-la.
5. Cảnh giới người.
6. Cảnh giới chư thiên.
Địa ngục là thấp nhất, súc sinh thì khá hơn một chút… cứ như thế mà nói thì cảnh
giới chư thiên là cao nhất. Cõi trời là cao nhất.
Sống trong xã hội mang tính ước định và tương đối thì chúc cho một người nào
đó được sinh vào cõi trời là một lời chúc phúc cao nhất. Lời chúc này cao hơn
năm lời chúc về sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí tuệ lưu hành rộng
rãi trong thế giới Phật giáo Nam truyền.
Với cái nhìn ước định và tương đối ta sẽ thấy cảnh giới địa ngục là tệ hại nhất.
Sinh thể ở cảnh giới địa ngục cần được giải thoát lên cảnh giới ngạ quỷ cao hơn.
Sinh thể ở cảnh giới ngạ quỷ cần được giải thoát lên cảnh giới súc sinh… Nói
theo mạch như vậy thì sinh thể ở cảnh giới người cần được giải thoát lên sống
trên cảnh trời. Mặt khác, cảnh giới địa ngục luôn luôn là B trong mọi trường
hợp. Cảnh giới ngạ quỷ là B đối với 4 cảnh giới súc sinh, a-tu-la, người và
trời nhưng lại là C đối với cảnh giới địa ngục. Cảnh giới súc sinh là B đối
với 3 cảnh giới a-tu-la, người và trời nhưng vẫn là cảnh giới lý tưởng C đối
với 2 cảnh giới địa ngục và ngạ quỷ. Cứ theo mạch như vậy thì ta sẽ có cảnh trời
là cảnh giới lý tưởng của 5 cảnh giới còn lại.
Cảnh giới địa ngục, Phật giáo miêu tả có 18 tầng. Cơ quan cai quản và vận hành
là Thập điện Diêm vương. Cốt tượng Diêm vương được thờ phụng; hình ảnh đặc tả
cảnh hình phạt của những tầng địa ngục được trang trí trên những bức bích họa
của nhiều ngôi chùa cổ trong hệ thống Bắc truyền. Kinh Địa Tạng cho biết
nguyên do và số lượng của địa ngục
qua câu chuyện đối đáp giữa một vị Thánh nữ và một vị quỷ vương tên là Vô Độc:
- …Ðó đều là do những nghiệp nhân xấu xa của ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi
là biển nghiệp, chính là ba cái biển này vậy.
- Địa ngục ở đâu? Thánh Nữ lại hỏi quỷ vương Vô Ðộc.
- Trong ba cái biển đó đều là địa ngục, Vô Độc đáp, nhiều đến số trăm nghìn, mỗi
ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bậc kế đó có 500 chỗ đủ
không lường sự khổ sở, bậc kế nữa có đến nghìn trăm cũng không lường sự thống
khổ.
Kinh Địa Tạng hé lộ vài nét lớn miêu tả hình phạt trong địa ngục qua đó
ta có thể hình dung mức độ đau khổ mà tội nhân phải trải nghiệm:
Hoặc có địa ngục kéo lưỡi người tội ra… hoặc có địa ngục moi tim người tội để
cho qủy Dạ-xoa ăn, hoặc có địa ngục vạc dầu sôi sùng sục nấu thân người tội,
hoặc có địa ngục đốt cột đồng cháy đỏ rồi bắt người tội ôm lấy. Hoặc có địa ngục
từng bựng lửa lớn bay tấp vào người tội, hoặc có địa ngục toàn cả thuần là băng
giá, hoặc có địa ngục đầy vô hạn đồ phẩn tiểu, hoặc có địa ngục lao gai chông
sắt, hoặc có địa ngục đâm nhiều giáo lửa...
Như vậy, diễn trình giải thoát trong nhà Phật là diễn trình giải thoát khỏi
cảnh giới địa ngục ký hiệu là B để vươn tới những cảnh giới cao hơn ký hiệu là
C. Mẫu số chung của diễn trình ấy là xuất phát từ cảnh giới rất khổ đau một
sinh linh tiến lên cảnh giới bớt khổ đau. Cuối cùng là cảnh giới không còn khổ
đau nữa, cảnh giới của các bậc Thánh, chư Phật, chư Bồ-tát.
Rời khỏi hệ thống kinh điển ta đi vào thế giới ngôn hạnh của những vị đạo sư
và nghe được lời dạy về những con đường mà một người có thể theo đó để giải
thoát bản thân khỏi sáu nẻo luân hồi hay sáu cảnh giới tái sinh như đã được
trình bày ở trên. Con đường giải thoát chính là con đường mà nhà Phật gọi là
Trung đạo. Căn bản của Trung đạo trong đời sống tu hành là Bát Chánh đạo. Tổ sư
Minh Đăng Quang dạy cho đồ chúng về vai trò của Bát Chánh đạo từ góc độ giáo lý
hay giáo tông:
Bát Chánh đạo cũng là tám con đường ngay thẳng, hay tám cửa giải thoát cho chúng
sinh, đang ở trong rừng sâu hố thẳm là đời... chỉ quanh quẩn trong sự cần sống
hiện tại; nên chúng sinh đã tạo ra cho mình đám rừng nguy, hố độc. Càng lúc càng
sâu dày, để tự giam hãm và hành phạt lấy [mình].
Bát Chánh đạo là con đường của Giới - Định - Tuệ, con đường của sự giải thoát
từ thấp lên cao để đạt đến cảnh giới giải thoát hoàn toàn.
Thông thường một người tu hành nghĩ rằng trong thời gian ngắn ngủi của một đời
người thì khó có thể làm được gì nhiều. Đường Tam Tạng cùng với bốn đồ đệ mà
còn phải vượt qua 81 ách nạn mới thành chánh quả, tức là cảnh giới giải thoát
hoàn toàn. Một kẻ phàm phu thì cần quãng thời gian nhiều A-tăng-kỳ kiếp và không
biết sẽ có bao nhiêu ách nạn mà nói.
Các vị Thiền sư thường không thích nói theo hướng nhọc nhằn tu tập tiệm tiến lên
từng bước, giải thoát từng bậc theo trình tự từ thấp lên cao. Từ địa ngục một
sinh linh được giải thoát mà sinh vào cảnh giới ngạ quỷ; rồi từ ngạ quỷ sinh
linh được giải thoát mà sinh vào cảnh giới bàng sinh hay súc sinh… Từ thế giới
loài người với thân phận của một phàm phu, một sinh linh nhờ công phu hành
thiền, lạy Phật sám hối, tụng kinh trì chú, làm lành lánh dữ mà sinh linh ấy
được giải thoát khỏi thế giới loài người mà sinh vào cảnh giới chư thiên cao
trên sung sướng.
Chuyện trình tự tiến hóa các vị Thiền sư không thích nói nhưng thường thì tùy
theo căn cơ mà không phủ nhận. Chuyện mà các vị Thiền sư thích nói là chuyện
đương cơ mà mỗi một người cần làm trong mỗi lúc. Trang mạng vuonhoaphatgiao.com
có đăng một giai thoại như sau:
Một ngày, có chàng trai đến gặp vị Thiền sư và nói: “Thưa Đại sư, vì sao con
không thể sống vui vẻ được? Có quá nhiều điều không như ý, có quá nhiều điều bất
công trong đời, khiến con luôn thấy mệt mỏi và phiền não”.
Thiền sư không trả lời, mà chỉ yêu cầu anh ta ra vườn hái đầy hai lẵng hoa. Một
lát sau, chàng trai quay trở lại, mang hai lẵng đầy hoa dâng lên trước mặt Thiền
sư.
Thiền sư nói: “Buông!”.
Chàng trai lưỡng lự không hiểu, nhưng cũng đặt lẵng hoa bên tay trái xuống trước.
Thiền sư lại nói: “Buông!”.
Anh ta lại đặt lẵng hoa bên tay phải xuống.
Thiền sư lại nói: “Buông!”.
(… )
Chàng trai nghe đến đây, đột nhiên bừng tỉnh.
Người viết đã biên tập bớt một câu thoại giữa vị Thiền sư và chàng thanh niên
trước khi chàng thanh niên bừng tỉnh và đã thay câu thoại đó bằng khoảng trống
(…). Một khoảng trống mà người viết mạo muội tạo ra với mục tiêu là gợi lên một
“nhịp cầu tâm giao” cho tất cả khách hữu duyên. Khách hữu duyên có nhã hứng
trước khi tra cứu có thể điền vào khoảng trống ấy theo cơ cảm và suy tư của
mình.
Tam kết: Qua hai thái cực đã được trình bày ở trên. Một thái cực là nghiêm cẩn
chí thú hành trì từng chút, từng ngày, từng thời duyên cảnh ngộ. Một thái cực là
động thái xòe nắm của bàn tay. Để đạt được lý tưởng giải thoát ta cần linh hoạt
ứng biến giữa hai thái cực trên để có được kết quả cao nhất trong mỗi lúc. Kính
chúc một mùa xuân sức khỏe, thành công và hạnh phúc.