Nhân Tết con cọp xin nêu dẫn một số chuyện nói về những chú cọp kỳ dị
nhan tet con cop
Nhân Tết con cọp xin nêu dẫn một số chuyện nói về những chú cọp kỳ dị
Đào Nguyên
Cọp là một loài thú dữ và đã được con người ban cho danh hiệu là chúa tể sơn lâm.
Nhưng những con cọp sẽ được chúng tôi nêu thuật sau đây đều thuộc về loại kỳ dị.
Hoặc là thứ cọp đã biết quay đầu, đã biết buông đao, hoặc là thứ cọp, trong một
hoàn cảnh cá biệt, đã biết tập sự tu hành để thay tâm đổi tánh có khi còn đảm
nhận luôn công việc bảo vệ chùa chiền. Hoặc là thứ cọp đã có những ngày tháng
sống chung với các nhà sư tu khổ hạnh nơi những hang sâu động thẳm…
I-
Từ “Con cọp ở Triệu Thành” trong Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh.
“Đất Triệu Thành có bà cụ già, tuổi ngoài bảy mươi, chỉ sinh được một trai. Ngày
kia, anh con trai ấy vào núi bị cọp vồ chết. Bà cụ đau đớn, không còn muốn sống,
kêu gào khiếu nại với Ấp Tể. (Quan huyện) Quan cười, bảo:
- Cọp thì thi hành pháp luật thế nào được?
Bà cụ lại kêu gào, dậm chân, gắt lên:
- Làm quan mà cứ khoanh tay nhìn chịu hay sao?
Ấp Tể quát mắng nhưng bà cụ cũng không biết sợ. Ấp Tể thương người mẹ già nua
nên chẳng nỡ ra oai, hứa là sẽ bắt cọp trừng trị. Bà lão cứ nằm phục xuống đất,
không đi. Quan không biết làm sao, đành nhận đơn, quay qua hỏi các chức dịch có
ai chịu đi bắp cọp. Một người lính lệ tên là Ly Năng đang say túy húy, liền chạy
ra nhận xin bắt cọp và cầm lấy tờ trát. Bà cụ thấy vậy mới chịu về.
Người lính lệ tỉnh rượu mới hối nhưng nghĩ là quan bày - chuyện cho bà cụ yên
lòng, mới đem trả tờ trát.
Ấp Tể nổi giận, nói:
- Mày tự nhận làm được chứ có ai ép? Hối là hối cái gì?
Lý Năng quẫn quá, bèn xin quan viết giấy cho phép nhờ các thợ săn giúp sức. Quan
ưng cho. Vậy là anh chàng lính lệ này cùng với các thợ săn ngày đêm ẩn trong mấy
hang núi, mong bắt cho được một con cọp mang về, để khỏi tắc trách. Rình núp hơn
một tháng nhưng chẳng bắt được con nào, nên bị đánh mấy trăm roi. Oan khổ không
biết kêu vào đâu, mới tìm đến Nhạc miếu ở phía Đông thành, quỳ khấn kể lể lạc cả
tiếng. Bỗng đâu một con cọp từ bên ngoài lừ lừ tiến vào. Tên lính lộ sợ hãi
cuống quýt. Thế nhưng cọp vào mà không nhìn đến người, chỉ xoạc cẳng ngồi ngay
nơi cửa miếu.
Lính lệ khấn rằng:
- Phải mày là đứa đã vồ chết con trai nhà họ Mỗ thì hãy nghe lời phục xuống cho
tao trói.
Cầm sợi dây thừng choàng vào cổ cọp, cọp cứ ngồi yên chịu trói bèn dẫn về huyện
đường. Ấp Tể hỏi cọp:
- Giết người thì phải thường mạng, luật xưa đã định. Bà lão kia lại chỉ có được
một đứa con trai, mày lại vồ chết nó khiến bà ta âu sầu khổ sở làm sao sống nổi?
Như mày chịu làm con trai bà ta, thì tao cũng xá tội cho.
Cọp gật đầu. Bèn sai cởi trói cho đi.
Bà lão thấy Ấp Tể không giết cọp, đền mạng cho con trai mình thì lấy làm oán
giận. Vài ngày sau, sáng dậy vừa mở cửa, bà lão đã thấy có con nai chết, bèn đem
bán thịt, da, lấy tiền sống qua ngày. Cứ thế, lâu lâu cọp lại ngậm tiền bạc, vải
vóc bỏ vào trong sân cho, bà lão vì thế cũng được dư giả.
Cọp phụng dưỡng bà lão còn hơn con đẻ, nên bà thầm cảm ơn. Mỗi khi đến, cọp nằm
phục dưới thềm cả ngày không đi. Người và vật sống yên, không nghi ngờ ghét sợ
nhau nữa.
Vài năm sau, bà cụ mất, cọp đã đến khóc tại nhà. Họ hàng nhặt nhạnh những vật
dành dụm của bà cụ, thứ nào có thể đem chôn thì chôn. Ngôi mộ vừa đắp xong, thì
cọp xồng xộc chạy tới, khách khứa bỏ chạy tán loạn. Cọp phục ngay trước mộ, kêu
rống như sấm, hồi lâu mới đi.
Người trong miền lập ở gò đông một ngôi miếu thờ con cọp có nghĩa, nay vẫn còn”.
(Truyện số 37. In trong Liêu Trai Chí Dị trọn bộ, Nguyễn Đức Lân dịch.
NXB.Văn Học - 2006. Tr.157-158).
II-
Đến những truyền thuyết nói về mấy con cọp đã từng quy hướng theo Phật.
“Ở vùng núi lớn thuộc xã Thắng Nhì, chợ Bến Đá (Vũng Tàu Việt Nam) có một ngôi
đền vẫn quen gọi là Điện Bà.
Cạnh bên ngôi đền ấy, đến nay vẫn còn dấu hai miệng hang lớn tương truyền là nơi
chốn của hai ông cọp đã tu từ thời có vị du tăng họ Trương tới đây lập cốc tu
Phật.
Truyền rằng, vào thời ấy, cả khu rừng núi rộng khắp này có 2 con cọp đã thực
hiện rất tốt vai trò của vị chúa tể sơn lâm ở đây. Do chúng rất khỏe mà lại rất
dữ nên chẳng những đám chim muông hiện có trong khu vực này đều khiếp sợ, mà cả
những người dân quanh vùng xa gần cũng chẳng có mấy ai bén mảng tới chốn hang
động đó. Thế rồi lại có vị du tăng họ Trương một thân một mình đã đi đến chốn
này, chọn lấy phần trong cùng của hang sâu ấy làm nơi tạm trú, thì hai vị chúa
tể sơn lâm kia lại tỏ ra e dè, kiêng nể, nên chẳng có phản ứng gì. Dần dần, khi
vị du tăng cất xong chiếc am nhỏ, tức cứ vào sáng chiều, thời gian nhà sư gõ mõ
tụng kinh thì hai con cọp đó lại đến nằm phục nơi trước cửa am để nghe kinh, rất
đều đặn như vậy. Mà chúng cũng thay tâm đổi tánh, cụ thể là không còn thỉnh
thoảng lẻn vào các thôn xóm lân cận vồ bắt gia súc để ăn thịt như trước nữa.
Sau đấy, ngoài hai con cọp kia, lại có thêm một đàn khỉ cũng kéo đến am tu đó để
nghe kinh. Và cọp, khỉ đều tỏ ra thân thiện, cung kính đối với nhà sư, nên luôn
được ông dành cho chúng những phần hoa quả, xôi bánh do bá tánh cúng dường (Tức
sau khi am tu được dựng lên thì dân chúng quanh miền gần xa đã lần lượt đi đến
đấy để lễ Phật, tụng kinh cho 2 con cọp không còn hung dữ như ngày trước).
Năm tháng cứ trôi qua, và am tu ấy cũng được chuyển đổi thành chùa, xây cất nơi
bên ngoài hang. Còn hai con cọp thì vẫn ở tu luôn trong hai cái hang đó. Một con
thì ở đấy mãi cho tới ngày qua đời hóa kiếp. Một con khác thì có lần mon men ra
ngoài mé rừng đã bị lính Pháp bắn chết. Người trong chùa hay tin, liền tìm đến
xin xác về chôn trong cái hang cũ của nó. Lại lấy đầu cọp phơi khô để thờ trong
chùa”.
Một truyền thuyết nữa thì nói về một con cọp trắng ngụ tại Thạch động gần với
núi Dinh Cô, có những liên hệ với vị Tổ khai sơn Tổ đình Thiên Thai, tọa lạc tại
bên chân núi Dinh Cô kia (Thuộc vùng Bà Rịa). Truyền rằng, khi vị Tổ khai sơn
ngôi tổ đình Thiên Thai vừa đặt chân tới nơi chốn này thì núi Dinh Cô là một
ngọn núi không cao lắm nhưng bốn bế là rừng hoang bao bọc. Về phía gần với chân
núi nhất có một thạch động, đang là trụ xứ của một con cọp trắng, hầu như là vị
chúa tể sơn lâm của khu vực thiên nhiên hoang dã ấy.
Bấy giờ, Tổ khai sơn vừa nhìn lên ngọn núi, rồi phóng mắt nhìn khắp chung quanh,
nhận thấy là chưa có điều kiện để dựng am xây cốc, nên đã vào trú tạm trong
thạch động. Cọp trắng đi săn mồi trở về, thấy có người đã tới chiếm Thạch động
thì nhe răng gầm thét dữ dội. Tổ ôn tồn bày tỏ lời đề nghị với cọp trắng nhường
lại nơi này để ông lập am thờ Phật tu Phật. Nghe vậy, cọp trắng liền nguôi giận
và một lát sau thì gật gật đầu rồi lặng lẽ ra đi.
Tất nhiên là cọp trắng phải đi tìm một nơi chốn cư trú mới, cũng là một hang đá
rộng ở về phía cao hơn thuộc vùng lưng chừng của ngọn núi Dinh Cô đó. Điều đáng
nói là cứ đến ngày Rằm và ngày mùng Một, cọp trắng lại trở về thạch động cũ, nằm
phục nơi trước cửa để nghe tiếng mõ tiếng chuông và tiếng tụng kinh. Mà dần dần
thì cọp trắng cũng thay tâm đổi tánh không còn ăn thịt sống nữa, chỉ ăn toàn là
trái cây, nhiều nhất là mít chín…
Cọp trắng vẫn sống bình thường nơi hang đá mới như đã nói và vẫn đều đặn vào các
ngày Rằm và ngày mùng Một thì trở về thạch động cũ để nghe kinh như trước. Cho
tới ngày già rồi chết và hóa kiếp. Tổ khai sơn chùa Thiên Thai đã lập một bàn
thờ cọp trắng tại trong thạch động để luôn tưởng nhớ đến sự việc cọp trắng đã
nhường lại nơi chốn này cho mình. Hiện nay, di tích đó vẫn còn”. (Dẫn theo sách:
Những Truyện cổ tích Việt Nam… Thích Trung Hậu sưu tầm. NXB.Tôn Giáo,
2004, tr.405-407).
III-
Kể cả những chú cọp đã từng sống chung…
Đây là những ghi chép của nhà thơ Quách Tấn (1910-1992) trong sách Xứ Trầm
Hương (vẫn được xem là một loại Địa phương chí, viết về đất nước Khánh Hòa)
theo truyền thuyết kể về một con cọp mun (lông toàn là màu đen) đã từng sống
chung cùng với một nhà sư tu khổ hạnh tại hang Ông Bưởi, trải qua hàng chín mười
năm trời.
“Từ Tháp Bà, theo mé sông liền với chân núi đi lên chừng một cây số, hoặc từ cầu
xe lửa Ngọc Hội đi xuống chừng bốn năm trăm thước, du khách sẽ trông thấy bên
bắc ngạn sông Nha Trang đó, sát chân núi, dưới bóng cây, có một cụm đá xanh, hòn
to hòn lớn chồng chất lên nhau, đồ sộ vững vàng, chắn ngang con đường lên xuống.
Bên trong cụm đá ấy có một hang đá tục gọi là Hang Ông Bưởi. Vì sao có tên như
thế? Là vì, vào buổi đầu nhà Nguyễn trung hưng có một nhà sư đã đến tu nơi hang
đá kia. Nhà sư quê quán ở đâu, danh tánh là gì, không một ai biết rõ. Nhưng thấy
nhà sư quanh năm chỉ ăn bưởi thay cơm nên gọi là ông Bưởi.
Truyền rằng: Ông Bưởi đến hang ở với một con cọp mun và một con cọp trắng. Cách
tu hành của ông Bưởi cũng khác hẳn với các sư sãi nơi chùa chiền. Không kệ không
kinh, không mõ chuông cũng không tràng hạt, mai chiều cứ ngồi im lìm trên đá để
tham thiền. Con vượn thì đứng hầu bên cạnh, còn con cọp thì nằm canh trước miệng
hang.
Mỗi ngày, nhà sư chỉ thọ trai vào đúng ngọ. Thức ăn là các thứ trái cây, nhiều
nhất là bưởi, do con cọp và con vượn hợp sức vào rừng tìm hái và để dành. Nhà sư
cũng ít khi ra khỏi hang. Thỉnh thoảng có vân du thì cỡi cọp mà đi nhẹ nhàng như
mây gió. Ban đêm, từ trong hang tỏa sáng, xa trông trong mát như ánh trăng.
Người thì cho do ông Bưởi tu hành đắc đạo nên thân phát ra hào quang. Nhiều
người khác lại bảo rằng ánh sáng kia là do bộ nút bằng dạ minh châu nơi áo cà-sa
của ông Bưởi ảnh hiện. Ai cũng cho mình là đúng, song sợ cọp nên không ai dám
đến tìm sự thật ở nơi hang.
Nghe đồn ông Bưởi có ngọc báu dạ minh châu, một đám côn đồ đã bàn với nhau là sẽ
tìm cách cướp đoạt. Một hôm, chúng rình thấy cọp và vượn đã đi vào rừng hái trái,
bèn kéo nhau ùa vào hang, nhưng rốt cuộc thì chẳng được gì. Vì bên trong hang
thì trống rỗng, còn ông Bưởi trên thân chỉ choàng một tấm vải nâu không đường
may cũng không thấy nút, và đang ngồi im theo thế bán già như một pho tượng đá,
mặc cho chúng sờ nắn, dùng tay để xô, lại dùng cả chân để đạp. Rồi một tên hung
dữ trong đám liền rút dao găm ra đâm mạnh vào phía bắp vế của ông Bưởi, lưỡi dao
vừa cắm sâu vào thì liên bắn ra găm phậm nơi vách đá, đồng thời một vòi máu nóng
từ nơi vết đâm kia phun mạnh vào mặt đám bất lương. Gặp lúc con cọp và con vượn
vừa trở về gầm rú vang rền khiến chúng càng sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Từ đấy
không một kẻ bất lương nào dám bén mảng tới vùng hang đá ấy.
Rồi thời gian cứ trôi qua. Tính ra thì ông Bưởi đã đến tu nơi hang đá này ngót
chín mười năm trời và cuộc sống giữa người và vật vẫn luôn yên ổn. Những khi dân
chúng trong vùng bị mất mùa, cuộc sống đa phần là đói kém, hoăch gặp phải các
thứ bệnh dịch thiên thời, thì ông Bưởi liền cỡi cọp phóng nhanh vân du khắp chốn
đây đó, hoặc để tìm hái các loại thảo dược, hoặc để quyên góp gạo muối đem về
rồi đặt nơi ngả ba đường gọi là góp phần cứu trợ.
Nói riêng về con cọp mun thì ngoài ba nhiệm vụ chính mà nó đã thực hiện rất tốt.
Đó là canh giữ, bảo vệ bên trông và bên ngoài hang đá, hợp sức với con vượn để
tìm hái trái cây trong rừng dùng làm lương thực cho nhà sư; lại làm thân ngựa
phi để cùng với sư thầy vân du v.v… Con cọp mun còn giữ một nhiệm vụ quan trọng
nữa. Ấy là phải nhận lấy nhiệm vụ ngăn chặn lựa chọn, không tha cho những kẻ xấu
được đi vào hang. Nói rõ hơn thì chỉ những người dân làm ăn lương thiện, có tín
tâm đối với Phật pháp, thì mới được con cọp quán xét mà cho vào hang, để thăm
viếng hoặc lễ bái nhà sư, nhất là vào các ngày lễ lớn như Vu lan, Phật đản. Do
đó, có một số rất đông dân chúng quanh vùng xa gần, vôn rất kính ngưỡng ông Bưởi
nhưng vì không muốn làm phiền con cọp nên chỉ ở tại nhà, vào những ngày 30, mùng
Một, Mười bốn, Rằm thì sáng chiều đốt hương vọng về phía hang đá mà đảnh lễ.
Quan cai trị Nội Hạt, nghĩ rằng ông Bưởi có tà thuật. Lại thấy dân chúng mỗi
ngày mỗi thêm sùng bái, sợ lâu sanh biến, nên đã ra lệnh trục xuất khỏi địa
phương. Nhưng lệnh ban ra đều không được thi hành, quan liền kéo quân tới vây
bắt.
Quân lính vừa đến gần miệng hang thì cọp gầm như sấm dậy, vượn hú lên nghe rợn
cả người khiến không một ai có gan bước tới. Một tên lính già nêu kế: dùng hỏa
công.
Thế là củi chất quanh hang. Rồi lửa bừng cháy rật rật. Ai cũng tưởng ông Bưởi
cùng với cọp, vượn phải chết thiêu. Kẻ gian ác thấy làm thỏa thích. Người lương
thiện thì sụt sùi lo sợ. Không ngờ ngọn lửa đang lên cao ngất, bỗng rẽ làm hai:
ông Bưởi cỡi cọp, dắt vượn, từ trong hang ung dung đi ra, rồi vụt chạy thẳng lên
núi. Mây bay gió cuốn, chỉ trong khoảnh khắc đã biệt tăm…”.
(Dẫn theo Xứ Trầm Hương của Quách Tấn. Hội Văn Học Nghệ Thuật Khánh Hòa
tái bản, 2002, tr.173-175).