Những đặc điểm tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy, Bộ phái và Đại thừa
nhung dac diem
Những đặc điểm tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy, Bộ phái và
Đại thừa
THANH TRÌ
Phật giáo là dòng chảy tư tưởng của nhân loại không ngừng thay
đổi, là hệ thống triết học có giá trị nhân văn và triết lý sống, đưa con người
từ khổ đau về với an lạc, có giá trị thực tiễn về mặt lịch sử lẫn tinh thần.
Giáo lý Phật giáo dù có trải qua bao nhiêu ngàn năm, qua bao nhiêu
sự thay đổi thì đặc tính giải thoát, an lạc cho người cho đời
vẫn không thay đổi. Lịch sử Phật giáo kéo dài hơn 2.600
năm từ ngày Đức Phật chuyển bánh xe pháp tại vườn Lộc
Uyển cho đến ngày nay đã trải qua ba thời kỳ lịch sử.
Giai đoạn Phật giáo Nguyên thủy, đây là giai đoạn thời Phật còn
tại thế, với nền giáo lý thực tu thực chứng, lấy sự thực hành đưa đến giải thoát
làm mục tiêu. Giai đoạn thứ hai là sau Phật Niết-bàn
khoảng 100 năm, thời kỳ Phật giáo bước vào thời kỳ phân
phái, đây là giai đoạn kho tàng văn điển Phật giáo lên ngôi với hàng chục bộ
phái chủ trương giải thích các lối giáo lý theo những
cách khác nhau. Đây là giai đoạn lên ngôi của A-tỳ-đạt-ma
luận thư.
Giai đoạn thứ ba là thời kỳ Phật giáo Đại thừa, xuất hiện vào
khoảng Tk.I sau khi vua Asoka băng hà. Bấy giờ
giáo lý Phật giáo bộ phái suy yếu, Phật giáo đã mất đi tính quần
chúng, do lối giải thích giáo lý quá phức tạp, làm cho
giáo lý bị giới hạn ở nơi giới
xuất gia, hệ thống tư tưởng khô cứng không còn tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã
hội Ấn Độ nữa, và vai trò của người Phật tử không còn
được xem trọng. Vào thời kỳ đó,
Phật giáo Đại thừa xuất hiện với lối giải thích giáo lý sinh động, cùng
với tư tưởng Bồ-tát đã đưa giáo lý của
Đức Phật trở về với phong trào đại chúng. Sự xuất hiện của Đại thừa Phật giáo đã
tưới tẩm cho tư tưởng giáo lý một nguồn sống mới.
Đây là ba giai đoạn phát triển của lịch sử Phật giáo trên thế
giới, tuy tên gọi và các lối giải thích giáo lý có sai khác, nhưng đều dựa trên
tinh thần giải thoát mà triển khai. Đôi lúc Phật giáo Bộ phái đi quá xa với
nguồn tư tưởng Nguyên thủy, nhưng đã được Phật giáo Đại thừa kéo trở về với mục
đích chính. Cho nên ba thời kỳ này là hỗ tương cho nhau phát triển, bỏ một trong
ba cũng không được, giống như HT.Quảng Độ đã nói trong
Nguyên thủy Phật giáo
tư tưởng luận: “Cây có 3
phần gốc (căn bản hay Nguyên thủy) thân (Tiểu
thừa) và ngọn (Đại thừa)”.
Lối giải thích giáo lý của ba thời kỳ tuy có khác nhau, nhưng
mục đích chính vẫn là đưa con người về với Niết-bàn an
lạc, xây dựng hạnh phúc cho đời cho người. Trong bài này
chúng ta sẽ làm rõ đặc điểm tư tưởng chính của từng thời kỳ Phật giáo,
bắt đầu từ Nguyên thủy, sau đó đến Bộ
phái và cuối cùng là Đại thừa. Đây là ba thời kỳ tư tưởng lịch sử Phật giáo mắc
xích với nhau, hỗ trợ cho nhau phát triển, bỏ một cũng
không được. Bài nghiên cứu này sẽ phần nào làm sáng tỏ
những gì mà xưa nay chúng ta nhầm lẫn, hay không biết nguyên nhân tại sao kinh
Nam truyền và Bắc truyền có lối giải thích khác nhau.
Phật giáo Nguyên thủy
Đặc điểm tư tưởng chính của Phật giáo Nguyên thủy là tinh thần
thiết thực hiện tại lấy pháp làm trung tâm và lấy nội tâm làm chủ. Thời kỳ Đức
Phật xuất hiện là thời kỳ bùng nổ triết lý tư tưởng tại Ấn Độ, với sự xuất hiện
các vị giáo chủ của các hệ tư tưởng khác nhau, chỉ đứng trên phương diện biện
luận giải thích một vấn đề siêu hình nào đó mà không xem trọng lối thực hành,
làm cho vấn đề tôn giáo trước thời kỳ Đức Thích Tôn xuất hiện
khi nghe nhắc đến ai cũng mường tượng có cái gì đó sâu xa, một thứ triết học
siêu hình khô cứng, con người không thể với tới được. Bấy giờ tư
tưởng văn học cổ Veda suy yếu không còn đủ sức lãnh đạo tinh thần dân tộc
Ấn Độ nữa, hệ thống triết học Ấn Độ bước vào thời kỳ tự do tư tưởng, hệ quả của
sự suy yếu đó chính là sự ra đời của hệ tư tưởng Sa-môn.
Hệ thống tư tưởng Veda từ xưa là hệ tư tưởng sống của dân
tộc Ấn Độ. Sau khi người Arya xâm chiếm toàn Ấn Độ,
họ dần biến hệ tư tưởng này thành các nghi lễ tế tự thờ cúng,
làm cho giá trị thực tiễn trong đời sống suy yếu. Những vấn đề nhân sinh quan,
vũ trụ quan của văn học Veda chỉ còn là lối giải thích suông, không đem
lại lợi ích gì cho xã hội, chế độ giai cấp được thực hiện nghiêm ngặt
đã làm mất đi giá trị nhân văn của nguồn văn học Veda. Thế nên đến thời
Đức Phật, hệ tư tưởng Sa-môn xuất hiện để chống lại nguồn
tư tưởng Veda đã lỗi thời, không còn giá trị phổ quát đối với dân chúng,
khi kinh Veda trở thành một thứ vũ khí thống trị
tinh thần của Bà-la-môn giáo.
Đức Phật xuất hiện với nguồn tư tưởng giáo lý thiết thực hiện
tại, và những gì không đem lại lợi ích cho con người
thường thì Đức Phật không bàn tới. “Giáo pháp của Ta là thiết thực hiện tại,
đến để mà thấy, không có thời gian, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu.” Điều này cho thấy Phật giáo là hệ
thống tư tưởng luôn đứng trên lập trường thực tế, với mục đích đem lại lợi lạc
lâu dài cho toàn nhân loại. Với giáo lý Tứ đế,
Đức Phật đã mở ra bốn sự thật về chân lý cuộc đời; với
giáo lý Duyên khởi, Ngài đã giải
thích tường tận về sự hiện hữu của con người và sự mắc xích của các nguyên nhân
đưa đến khổ đau; với tư tưởng Vô
ngã, Đức Phật đã bác bỏ niềm tin sai lạc của con người từ
trước đến nay, luôn chấp thủ cái này của ta cái kia của ta để rồi sinh ra
đau khổ. Cuối cùng là Niết-bàn an lạc, một cảnh giới an
vui vắng lặng mọi sự khổ, thế giới chỉ có thể trải nghiệm mà không thể diễn tả
bằng lời.
Giáo lý Đức Phật với nguồn tư tưởng thiết thực hiện tại
có thể giúp xây dựng một xã hội bình đẳng, ai ai cũng được thấm
nhuần trong lý tưởng sống cao cả và con người được quyền làm chủ
chính mình, “được người trí tự mình giác hiểu.” Về
vấn đề thế giới quan, việc giải thích vũ
trụ và nhân sinh của Đức Phật cũng chịu sự ảnh hưởng của
tư tưởng Veda, nhưng thay vì giải thích theo các nhà Bà-la-môn
giáo chủ trương số phận con người chịu sự
chi phối của Phạm thiên, thì Đức Phật lại chủ trương con người tự quyết định số
phận của chính mình. “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp,
nghiệp là thai tạng, là quyến thuộc. Phàm việc làm không tác ý thì không tạo
thành nghiệp.”
Đó là vấn đề nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật giáo.
Đức Phật lấy nhân sinh làm trung tâm, vì Ngài cho rằng
con người là một tiểu vũ trụ. “Ta nói trong tấm thân một trượng này, thế giới
nguyên nhân thành lập thế giới, sự hoại diệt thế giới và con đường đưa đến hoại
diệt thế giới.” Lối giải thích về vũ trụ và nhân sinh quan này
hoàn toàn khác xa với truyền thống văn học Veda mà
nó cho rằng Phạm thiên là chân lý. Ngược lại
Đức Phật khẳng định rằng con người là chủ
thể của vũ trụ. Điều này đã thánh hóa con người, kéo tư tưởng của dân tộc Ấn Độ
ra khỏi sự lệ thuộc vào thần thánh một cách thụ động mà từ xa xưa bị giới Bà-la-môn
đầu độc.
Tuy bác bỏ chủ thể thần linh, nhưng Đức Phật không tự nhận
Ngài là giáo chủ lãnh đạo Tăng
đoàn mà khuyên các thầy Tỷ-kheo hãy
lấy pháp làm trung tâm. Điều này được Đức Phật nói trước khi
diệt độ, trong kinh Đại bát Niết-bàn
như sau: “Này Anada, Pháp và Luật mà Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta
diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo sư của các ngươi.” Điều này
cho thấy Đức Phật muốn dẫn dắt các Tỷ-kheo
thoát ly sự nương tựa vào bất cứ vị đạo sư hay thần thánh nào, khuyên bảo họ tự
nương tựa vào chính mình. Nếu còn nương tựa vào một đấng
nào đó thì vẫn còn bị ràng buộc và đi theo hệ tư tưởng cũ của Bà-la-môn
giáo, tôn giáo cho rằng thần linh là chủ
thể để nương tựa.
Đức Phật chủ trương con người tự quyết định số phận của chính
mình trong xã hội chủ trương Thần ý luận. Ngài chủ
trương những việc làm có tác ý của con
người ý sẽ nhận hậu quả tương ứng trong xã hội chủ trương Ngẫu nhiên
luận. Đức Phật xem trọng lối thực hành tránh né tối đa sự
tranh luận trong xã hội chủ trương Ngụy biện luận.
Tóm lại, đặc điểm tư tưởng của Phật giáo
Nguyên thủy là đề cao trách nhiệm cá nhân, lấy con người làm chủ thể, bác bỏ
quan niệm nương tựa vào thần thánh mà các Bà-la-môn chủ
trương. Mặt khác là tính thiết thực hiện tại. Giáo lý Đức
Phật là giáo lý thực hành đưa đến giải thoát. Đức Phật
tránh tối đa sự biện luận, điều rất được các nhà tư tưởng đương thời ưa chuộng.
Đó là đặc tính căn bản của Phật giáo thời kỳ Phật còn tại thế.
Phật giáo Bộ phái
Đặc điểm chính của Phật giáo Bộ phái là sự ra đời phong phú của
kho tàng Luận tạng. Phật giáo Bộ phái là thời kỳ sau Đức
Phật diệt độ 100 năm. Thời kỳ phân phái kéo dài cho đến Tk.I
sau khi Phật giáo Đại thừa xuất hiện. Đến thời điểm đó
Phật giáo có đến gần 20 bộ phái, chủ trương những cách
giải thích giáo lý khác nhau. Sau khi Đức Phật diệt độ
gần một thế kỷ thì lối giải thích giáo lý và phương pháp
thực hành giới luật đã có sự thay đổi. Sau kỳ kết tập lần
thứ hai, Phật giáo chính thức phân thành hai
bộ phái lớn. Bộ phái thứ nhất là Thượng tọa bộ
theo khuynh hướng bảo thủ, giữ trọn vẹn truyền thống từ thời Đức
Phật còn tại thế; bộ phái thứ hai chiếm
đa số hơn nên được gọi là Đại chúng bộ,
theo khuynh hướng tự do thay đổi, tùy theo tình hình thời
đại và vị trí địa lý mà có lối thực hành pháp và luật Phật chế bằng những
hình thức mới mẻ hơn.
Sự phân phái Phật giáo thành Thượng
tọa bộ và Đại chúng
bộ đã dẫn đến việc giải thích kinh
luật và thực hành theo hai hướng khác nhau, tạo tiền đề cho
phong trào phân phái sau này. Thành tựu lớn nhất của thời kỳ Bộ
phái Phật giáo là cho ra đời kho tàng Luận tạng (Abidhama). Đây
được xem là thời kỳ lên ngôi của nền văn học Phật giáo.
Nói đến Phật giáo Bộ phái ai cũng nghĩ đây là thời
kỳ của A-tỳ-đạt-ma luận thư. Tuy là thời
kỳ lên ngôi của kho tàng Luận tạng, nhưng giáo lý Phật
giáo Bộ phái theo quá trình giải thích về sau đã biến thành đạo của giới xuất
gia, dần đánh mất đi tính phổ biến trong quần chúng tại
gia.
Vào thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, Đức
Phật xem trọng lối thực tu thực chứng, đề cao sự thực hành và chú trọng nội tâm.
Những giáo lý được Đức Phật thuyết giảng chỉ với mục đích tùy
phương tiện, tùy trình độ mà mở con đường giải thoát cho chúng sinh. Phật giáo
thời kỳ Bộ phái tuy cũng xem trọng nội tâm nhưng đem kinh
điển và các giáo lý đơn giản phân tích ra chi tiết và rất xem trọng việc phân
tích đó. Nếu giáo lý thời Đức Phật xem trọng nội tâm, thì thời kỳ
Bộ phái lại xem trọng ngoại giới.
Mặt khác, vai trò của hàng đệ tử cư sĩ
thời Đức Phật còn tại thế cũng được Ngài
xem trọng như hàng đệ tử xuất gia, điều đó được thể hiện
qua bốn lời hứa của Đức Phật đối với Ác Ma, khi Ác Ma thỉnh Phật nhập Niết-bàn.
“Này Ác Ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo
của Ta.... những Tỷ-kheo-ni của Ta... những nam cư sĩ của
Ta... những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh sáng suốt,
có kỷ luật, đa văn, duy trì Chánh pháp...”
Lời hứa của Đức Phật đã cho thấy sự hỗ
tương của hàng đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài.
Bốn hội chúng đều quan trọng trong việc
hỗ trợ cho nhau duy trì mạng mạch Chánh pháp. Đến thời kỳ
Bộ phái, vai trò của hàng cư sĩ không còn được đề cao.
Phật giáo Bộ phái chỉ xem trọng đạo xuất gia, các giáo lý giải thoát chỉ còn
giới hạn nơi hàng đệ tử xuất gia.
Điều này đã làm cho Phật giáo Bộ phái mất đi tính phổ biến trong
quần chúng. Mặt khác, với lối giải
thích giáo lý rườm rà, xem trọng việc phân tích giáo lý,
Phật giáo Bộ phái đã đi theo lối biện luận,
tranh luận của các nhà tư tưởng thời Đức Phật, điều mà Đức Phật
tránh né tối đa khi Ngài còn tại thế.
Một điều nữa là quan điểm về Đức Phật. Thời
Đức Phật còn tại thế, Ngài chủ
trương mọi chúng sinh đều bình đẳng, lấy giải thoát làm
mục đích. Vào thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy,
Đức Phật được xem như một biểu tượng tinh thần, qua đó
làm động lực cho mọi chúng sinh nỗ lực tinh tấn đi đến giác ngộ. Đến thời kỳ
Phật giáo Bộ Phái, vì quá xem trọng nhân cách của Đức Phật, các bộ
phái không ngừng khoác lên Ngài vô số thần thông, biến
Ngài từ một vị Phật lịch sử trở thành một đấng
cao siêu, người thường không thể sánh được. Cho dù họ có
tu tập đến đâu cũng không thể bằng được Phật, mà chỉ là
đệ tử của Ngài. Quan điểm Phật thân luận thay đổi hoàn
toàn.
Sự phát triển của Phật giáo Bộ phái đã đi vào vết xe đổ của các
nhà Bà-la-môn trước kia. Tuy giáo lý bình đẳng từ bi
không thay đổi, nhưng giáo lý bị giới hạn ở nơi
giới xuất gia, cũng tương tự như thánh kinh Veda xưa chỉ
có tầng lớp giáo sĩ mới được đọc tụng. Mặt khác, khi
Đức Phật còn tại thế, Ngài tránh
tối đa sự lý luận không đem lại lợi ích, nhưng Phật giáo Bộ phái đã không ngừng
đem giáo lý của Đức Phật ra lý luận, nghiên cứu, đặt nhẹ việc thực hành, điều
này đã làm cho Phật giáo Bộ phái ngày càng mất đi tính quần chúng. Do đó,
theo sự phát triển của thời đại,
Phật giáo Đại thừa ra đời với khuynh hướng diễn giải giáo
lý theo tinh thần đại chúng, đưa Phật giáo trở về với
tính phổ biến trong xã hội.
Tóm lại, Phật giáo Bộ phái tuy là thời kỳ
vàng son của văn điển Phật giáo, với kho tàng Luận tạng phong phú, nhưng
phong trào Phật giáo này lại bị gọi là Tiểu thừa bởi
vì quá để tâm đến vấn đề nghiên cứu học thuật. Giáo lý
Đức Phật bị phân tích chi li đến nỗi ít người hiểu được,
và dần biến thành giáo thuyết của giới xuất gia;
hàng cư sĩ không thể tiếp cận được con đường đưa
đến giải thoát mà Đức Phật đã khai mở, và vì thế Phật
giáo Bộ phái đã không bắt kịp và đáp ứng được nhu cầu phát triển của thời đại.
Từ đây một phong trào tư tưởng mới của Phật giáo
đã bắt đầu phát triển để bắt kịp xu hướng
của thời đại mới, đưa giáo lý Phật giáo Bộ phái ra khỏi tòa tháp ngà của giới
xuất gia, trở về với phong trào đại chúng, đó là Phật giáo Đại thừa.
Phật giáo Đại thừa
Phật giáo Đại thừa xuất hiện vào khoảng Tk.I.
Sau khi vua Asoka băng hà, triều đại Maurya sụp đổ, Phật giáo
không còn nhận được sự bảo trợ của hoàng gia. Bấy
giờ Phật giáo đánh mất đi vị thế trước đó của mình,
nhường chỗ cho Hindu giáo. Dưới triều đại Sunga,
Phật giáo gặp phải nhiều sự bất lợi, và sự phục hưng mạnh mẽ của
Hindu giáo đã đồng hóa Đức Phật và giáo lý của Ngài thành một chi nhánh của Bà-la-môn
giáo. Giai đoạn khoảng Tk.II trước TL là
giai đoạn cực kỳ khó khăn của Phật giáo, một mặt phải đấu tranh để tồn tại,
chống lại sự đồng hóa của Bà-la-môn giáo, mặt khác phải
thay đổi và phát triển đường hướng mới đưa Phật giáo trở về phù hợp với đời sống
xã hội.
Không còn sự bảo trợ của hoàng gia nữa, Phật giáo buộc phải tự
lực cánh sinh, thế nên phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu diễn ra mạnh mẽ
vào khoảng Tk.II, kết quả là sự ra đời và phát triển của
Phật giáo Đại thừa. Phật giáo Đại thừa xuất hiện khi Phật giáo Bộ phái đã
đánh mất sự ủng hộ của quần chúng.
Quan điểm về Đức Phật của Phật giáo Bộ phái đã đẩy Đức Phật
ra xa quần chúng. Ngài được các
nhà Bộ phái khoác lên vô số chiếc áo siêu hình, hàng đệ tử
dù nỗ lực đến đâu cũng không thể như Phật được. Phật giáo Đại
thừa xuất hiện lấy Đức Phật làm lý tưởng, đi về với tư
tưởng Nguyên thủy lấy con đường giác ngộ làm mục tiêu, chúng sinh
và Phật đều đồng bản tánh với nhau, nếu nỗ lực thì ai cũng có thể giác ngộ như
Phật, thế nên tư tưởng Bồ-tát thời kỳ này phát triển vô
cùng mạnh mẽ.
Có thể nói lý tưởng Bồ-tát là sự phát
triển nổi bật nhất của Phật giáo Đại thừa. Thuật
ngữ Bồ-tát đã xuất hiện từ rất sớm ở
trong hệ kinh điển Nguyên thủy, nhưng thuật ngữ Bồ-tát
thời Đức Phật kéo dài cho đến thời kỳ Bộ phái chỉ xoay
quanh một nhân vật đó là Đức Phật. Ở thời kỳ Phật
giáo Nguyên thủy, Bồ-tát là chỉ cho quá
trình tìm đạo của Đức Phật. Qua đến thời kỳ Bộ phái,
lý tưởng này chỉ cho công hạnh của Đức Phật ở đời quá khứ. Đến thời kỳ
Phật giáo Đại thừa, Bồ-tát là mẫu người lý tưởng của Phật
giáo Đại thừa, bất cứ ai tu hạnh Bồ-tát cũng có thể thành
Phật vì Đại thừa cho rằng hiện tại có vô số Bồ-tát cứu độ
chúng sinh.
Bồ-tát của Phật giáo Đại thừa không chỉ
dành riêng cho Đức Phật như trước đây nữa, cũng không phải chỉ dành riêng cho
người xuất gia, mà Bồ-tát bấy giờ
mang khuynh hướng của hàng cư sĩ hơn. Chứng minh cho điều này
là hình tượng của các vị Bồ-tát đều mang hình dáng của
người cư sĩ, và các kinh điển của Đại thừa cũng cho rằng người cư sĩ cũng có trí
tuệ gần bằng Phật, khi đã làm chủ tâm và thực hành Bồ-tát
đạo. Có thể dẫn ra đây một số kinh như
Duy Ma, Thắng Man, Hoa
nghiêm… Điều này có
lẽ một phần là do sức ép của hàng cư sĩ khi họ bị Phật giáo Bộ
phái bỏ rơi, một lý do nữa là do
ảnh hưởng của phong trào xã hội hóa Phật giáo.
Nếu Nguyên thủy chủ trương các pháp là không thật, Bộ phái chủ
trương các pháp đều hiện hữu, thì Phật giáo Đại thừa lại dung hòa hai tư tưởng
lại với nhau là chân không diệu hữu, và sự ra đời của bộ Đại Bát-nhã
vô cùng phong phú, nhưng vẫn không đi xa giáo lý giải thoát của Đức
Phật. Tư tưởng Phật giáo Đại thừa cũng tương tự
với Nguyên thủy Phật giáo nên chủ trương tất cả đều do tâm. Ví dụ, kinh
Hoa nghiêm
viết: “Tâm như họa sĩ khéo/
Vẽ thế giới muôn màu/ Cảnh ngũ ấm thế
gian/ Không pháp nào không tạo.”
Và học thuyết vô ngã được định nghĩa trong Kim
cang như sau: “Nhược dĩ sắc kiến
ngã/ Dĩ âm thanh cầu ngã/
Thị nhân hành tà đạo/ Bất năng kiến Như Lai.”
Điều này cho chúng ta thấy rằng
tất cả kinh điển Đại thừa đều được triển khai từ tư tưởng Nguyên
thủy, nhưng phát triển theo khuynh
hướng của thời đại.
Do ảnh hưởng của thời đại cho nên khái niệm
Niết-bàn của Đại thừa cũng vì thế mà thay
đổi. Niết-bàn là lý tưởng chung
của Phật giáo. Nguyên thủy, Bộ
phái hay Đại thừa đều quan niệm Niết-bàn
là cảnh giới an lạc, vắng lặng mọi khổ đau. Nhưng quan điểm Niết-bàn
của Phật giáo Đại thừa lại mang khuynh hướng tích cực, hoạt động; và
do chí nguyện độ sinh mà
chư Phật và Bồ-tát dù đã nhập diệt
vẫn hóa hiện lại cứu độ đời, nhưng không bị đời
làm cho ô nhiễm. Do đó Niết-bàn của Đại
thừa được gọi là Vô trụ Niết-bàn.
Tóm lại, Đại thừa Phật giáo xuất hiện căn
bản là do sự thích nghi với thời đại. Nếu
trước đó Nguyên thủy Phật giáo luôn quan tâm đến thời
đại, thì Bộ phái lại bỏ qua điểm này, chỉ lo chú tâm vào việc tìm tòi nghiên
cứu. Điều này đã dẫn đến Phật giáo suy yếu ở Tk.II.
Phật giáo Đại thừa xuất hiện đã tưới tẩm cho nguồn giáo
lý Phật giáo đã bị khô cứng ở thời kỳ Bộ phái một sức sống mới, cho nên sự xuất
hiện của Phật giáo Đại thừa có quan hệ mật thiết với tư trào thời đại. Tuy vậy
tư tưởng kinh điển của Đại thừa vẫn không đi xa tinh thần Nguyên thủy, thế nên
Phật giáo Đại thừa được cho là gần với tư tưởng Nguyên thủy hơn.
Kết luận
Lịch sử tưởng tưởng Phật giáo trải qua ba
thời kỳ Nguyên thủy, Bộ phái và Đại thừa. Tuy
tên gọi và cách giải thích giáo lý có khác nhau nhưng sự liên hệ giữa và hỗ
tương cho sự phát triển về giáo lý của ba thời kỳ có mối liên hệ chặt chẽ. Tuy
thời kỳ Bộ phái Phật giáo chủ trương đóng cửa nghiên cứu, nhưng ta có thể hiểu
rằng nhờ thời kỳ này mà kho tàng văn điển của Phật giáo mới đạt đến mức cực
thịnh, nếu không có thời kỳ Bộ phái thì sẽ không có thời kỳ
Phật giáo Đại thừa. Nếu Phật giáo Đại thừa không xuất hiện thì hàng đệ tử Phật
đời sau cũng không biết con đường nào tìm về tư tưởng Nguyên thủy. Các kinh điển
Đại thừa tuy có lối giải thích giáo lý khác với Nguyên thủy nhưng cũng do tư
tưởng Nguyên thủy mà phát triển.