Nhân quả đồng thời
nhan qua dong thoi
NHÂN QUẢ ĐỒNG THỜI
Thích Thanh Hòa
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta
thường nhận thức không-thời gian như những sự vật hiện tượng có thật (thực thể).
Dựa trên nhận thức đó, Nhất thiết hữu bộ - một trường phái Phật giáo thời kỳ đầu
- chủ trương thời gian thực sự tồn tại qua ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai
(tam thế thật hữu). Cũng như thế, trong vật lý học cổ điển, không-thời gian cũng
được xem là những định tính của thực tại.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào chiêm
nghiệm thực tại bằng trí tuệ vô phân biệt, Phật giáo Đại thừa thấy rằng vạn vật
liên quan mật thiết với nhau. Thế giới không còn là những cá thể riêng lẻ rời
rạc mà là một thể dung nhiếp thống nhất. Không-thời gian do đó chỉ là những khái
niệm mang tính quy ước không có thực thể. Để diễn bày cảnh giới này, Phật giáo
Đại thừa nhiều khi phải phá vỡ những khái niệm khuôn mẫu mà dùng đến những hình
thức phủ định. Không-thời gian vì thế trở thành phi không-thời gian. Bồ-tát Long
Thọ từng nói:
“Nhân sự hữu mà có thời gian, vậy lìa
sự hữu thì làm sao có thời gian?
Không có sự hữu nào tồn tại, vậy từ
đâu mà có thời gian?”
Cũng trên tinh thần đó, khi bàn đến
chủng tử (bīja)
được cất chứa trong a-lại-da thức (ālaya-vijñāna),
Nhiếp Đại thừa và Thành duy thức nói rằng
chủng tử có sáu đặc tính: sát-na diệt
(sinh diệt liên tục trong từng sát-na), quả câu hữu (cùng tồn tại với quả), hằng
tùy chuyển (chuyển biến liên tục), tánh quyết định (xác định công năng sinh
thiện ác theo nhân), đãi chúng duyên (phải hội đủ các điều kiện của nó mới có
công năng sinh quả), và dẫn tự quả (dẫn sinh quả của chính nó).
Trong những đặc tính này, điểm nổi
bật và đáng luận bàn nhất chính là “quả câu hữu.”
Quả câu hữu (sahabhū) nghĩa
là cùng tồn tại với quả, cũng tức là nhân quả đồng thời, nhân chủng tử và quả
hiện hành cùng hòa hợp hiện hữu.
Tôn giả Thế Thân nói:
“Chủng tử là đồng thời với quả. Không
phải pháp thuộc quá khứ, không phải pháp thuộc vị lai, cũng không phải pháp tách
rời quả có thể làm chủng tử. Vì sao? Vì ngay thời điểm chủng tử hiện diện cũng
là thời điểm quả sinh.”
Điều này mới nghe dường như trái với
lẽ thông thường khi hằng ngày chúng ta cảm nhận được tính trình tự theo tuyến
tính của nhân quả, nghĩa là nhân trước quả sau. Tuy nhiên, nhân quả ở đây là
hoạt động chuyển biến của thức (thức biến) vượt ra ngoài hạn định của cái thấy
biết bị chia chẻ do ý thức mang lại.
Liên quan đến vấn đề thời gian, Duy
thức phái phủ nhận quan điểm “tam thế thật hữu” của Nhất thiết hữu bộ.
Do đó, khi luận về nhân quả, các nhà Duy thức cho rằng nếu nhân trước quả sau
theo trình tự thời gian, khi nhân hiện hữu thì quả chưa có, khi quả hiện hữu thì
nhân đã không còn, vậy lấy gì để nói nhân sinh ra quả? Nhân quả trước sau như
thế chẳng khác nào nói con chim đã chết đang hót!
Duy thức phái kế thừa quan điểm “quá vị vô thể” của Kinh lượng bộ, tuy nhiên
phần lớn không đồng tình với chủ trương “hiện tại sinh diệt nhị thời” của phái
này.
Thay vào đó, các nhà Duy thức chủ trương “hiện hữu thể dụng”, trong nhân có quả,
trong quả có nhân, chủng tử hiện hành đắp đổi làm nhân quả cho nhau.
Trong thức biến, mối quan hệ giữa
chủng tử và hiện hành là quan hệ nhân quả (kāraṇa-kārya-sambandha), nhưng
nhân quả ở đây chỉ mang tính tạm thời bởi nhân quả đắp đổi cho nhau. Về căn bản,
quan hệ nhân quả của quá trình thức biến được An Huệ (Sthiramati) trình
bày như sau:
“Thế nào gọi là chuyển biến? Đó là
trạng thái biến đổi. [Hay nói cách khác], chuyển biến là sự thành tựu tự tính
của quả (kārya)
đồng thời với sự diệt tắt của sát-na nhân (kāraṇa) nhưng khác tính chất
với sát-na nhân. Trong đó, do sự tăng trưởng của tập khí [sinh ra bởi sự] phân
biệt các thứ như ngã v.v. và do sự tăng trưởng của tập khí [sinh ra bởi sự] phân
biệt các thứ như sắc v.v.; từ a-lại-da thức, sự phân biệt thành ảnh tượng của
các thứ ngã v.v. và thành ảnh tưởng của các thứ sắc v.v. sinh khởi.”[8]
Ở đây, kāraṇa (nhân) kārya
(quả) đều là những danh từ phái sinh từ động từ căn kṛ (làm, thực hiện).
Điều này có nghĩa rằng trong cùng một hoạt động, tùy ở phương vị nào mà nó được
gọi là nhân hay quả chứ không nhất định một chiều như khái niệm nhân quả trong
quan hệ hetu-phala (hetu-phala cũng được dịch là nhân-quả). Một
pháp là nhân cho tiến trình này nhưng đồng thời cũng là quả của tiến trình khác.
Trong tiến trình chủng tử khai phóng hiện hành, chủng tử là nhân (kāraṇa),
hiện hành là quả (kārya); đồng thời ngược lại, trong tiến trình hiện hành
huân tập chủng tử, chủng tử là quả (kārya), hiện hành là nhân (kāraṇa).
Cứ như thế, hai tiến trình đảo chiều xảy ra đồng thời, ba pháp chủng tử (bổn
hữu), hiện hành, và chủng tử (tân huân) cùng lúc làm nhân quả cho nhau.
Hiện tượng này được gọi là “tam pháp triển chuyển, nhân quả đồng thời.” Thành
Duy thức
nói:
“Các thức năng huân sinh khởi từ
chủng tử liền có thể làm nhân huân tập trở lại tạo thành chủng tử. Ba pháp lần
lượt đồng thời làm nhân quả cho nhau.”
Quan điểm nhân quả đồng thời là một
bước đột phá trong tư tưởng của Phật giáo Đại thừa tiến đến quan niệm Pháp giới
nhất thể hay Nhất chân pháp giới, trong đó vạn pháp tồn tại trong mối tương quan
hỗ tức hỗ nhập, dung nhiếp nhau. Tất cả là một, không có gì tồn tại độc lập
riêng biệt. Các sự vật hiện tượng mà ngày thường chúng ta tưởng rằng chỉ tồn tại
độc lập riêng lẻ, thực ra chúng đang tồn tại trong một mối tương quan mật thiết
với nhau như một hệ thống. Sự thật này khó để cảm nhận được trong con mắt phân
biệt chia chẻ do tập quán phân biệt bỉ thử của chúng ta. Sự khác biệt giữa thế
giới phân biệt chia chẻ và thế giới dung nhiếp chính là sự khác biệt giữa thức
và trí. Trí (jñāna) vốn nhất thể, nhận chân thế giới đúng như thật. Thức
(vijñāna) là sự nhận thức bằng tiến trình phân đôi. Từ nơi nhất thể, thức
tự động chia chẻ thế giới thành các tướng trạng nhị nguyên. Trong từ nguyên của
thức (vi-jñāna), tiếp đầu ngữ ‘vi’ chỉ cho sự chia chẻ. Nhận thức
không thể xảy ra nếu không có sự chia chẻ từ nơi nền tảng của trí bản sơ.
Thế giới vốn là đồng thời trong nhất
thể, phổ biến không có biên tế. Trong khi đó, nhận thức và tư duy của chúng ta
là một chiều, cục bộ và liên tục theo tuyến tính.
Càng muốn nắm bắt thế giới bao nhiêu, chúng ta càng bóp méo thu hẹp nó bấy
nhiêu. Điều đó cũng giống như chúng ta đứng ngắm một buổi chiều đẹp sau lớp hàng
rào kín kẽ. Chính sự chú tâm theo lối thu hẹp của tập quán tư duy mà chúng ta
chỉ nhìn thấy một vài khía cạnh đặc thù nào đó của cả một thực tại không bến bờ.
Từ cái thấy bị chia chẻ, chúng ta đinh ninh rằng thế giới tồn tại độc lập và đơn
lẻ ở ngoài kia.
Mặc dù trong thực tế hàng ngày, chúng
ta khó cảm nhận được cái thực tại dung nhiếp đồng thời này, nhưng ngày nay,
trong một số ngành học liên đới, chúng ta có thể tìm thấy một vài chỗ tương đồng
giúp ta liên tưởng đến cái thực tại tròn đầy đang hiện diện này.
Bàn về một Thế giới nhất thể bất phân
(Undivided Wholeness) từ những thí nghiệm trong ngành vật lý học lượng
tử, hay một trật tự căn bản nhưng khác lạ với những kinh nghiệm thường ngày của
chúng ta, nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng David Bohm nói:
“Trong Trật tự thu nhiếp (Implicate
Order), không-thời gian không còn là những yếu tố quyết định chi phối mối
tương quan phụ thuộc hay độc lập của các thành phần khác nhau. Thay vào đó, có
thể có một loại liên kết cơ bản hoàn toàn khác giữa các thành phần mà từ đó,
những ý niệm thường nhật của chúng ta về không-thời gian cũng như các hạt vật
chất tồn tại riêng lẻ được trích xuất như những hình thái từ một trật tự u huyền
hơn. Thực ra, những ý niệm thường nhật này trình hiện trong cái gọi là Trật
tự
khai
phóng
(Explicate Order), một hình thái đặc biệt và đặc thù được cất giữ trong
cái toàn thể bao quát của các Trật
tự
thu
nhiếp.”
Hay như trường hợp nhà
tâm
lý học Carl Jung, ông cho rằng vùng sâu thẳm nhất của tâm thức là nơi cất giữ
các mẫu hình của cả vũ trụ bao la, là một thế giới chung cho cả nhân loại. Ông
gọi đó là Vô thức
tập
thể
(collective unconscious).
Chính do mối liên hệ giữa cái vô thức này với thế giới bên ngoài mà xuất hiện
hiện tượng Đồng thời tưng ưng (Synchronicity) giữa một trạng thái tâm
thức và một biến cố ngoại tại.
Ông nói về Vô thức
tập
thể
như sau:
“Vô
thức
tập
thể
là một phần của tâm thức. Nó khác biệt với vô thức cá nhân bởi nó không hiện hữu
nhờ vào những kinh nghiệm cá nhân như vô thức cá nhân và do đó không phải là sự
hoạch đắc mang tính cá nhân. Trong khi vô thức cá nhân được hình thành chủ yếu
từ những nội dung đã từng được biết qua nhưng đã biến mất khỏi tâm thức do bị
lãng quên hay bị đè nén; nội hàm của vô thức tập thể là chưa từng được biết đến
và vì thế không phải là một sự thành tựu thuộc phạm trù cá nhân, nó hiện hữu chỉ
do bởi di truyền. Trái với vô thức cá nhân chứa đựng phần lớn những phức cảm,
nội hàm của vô thức tập thể được tạo nên từ những nguyên hình (archetype).”
Khi so sánh lại, chúng ta bất ngờ
nhận ra một sự dung thông lạ lùng giữa ba quan niệm từ ba lĩnh vực nghiên cứu
khác nhau. Đó là sự gặp nhau giữa khái niệm A-lại-da thức của Duy
thức
(Phật giáo), Trật tự thu nhiếp của Bohm (Vật lý học), và Vô thức tập thể của
Jung (Tâm lý học). Sự dung thông này hiển bày một thế giới dung nhiếp chứa đựng
cả vũ trụ bao la và liên quan mật thiết với thế giới nội tại cũng như ngoại tại
của chúng ta.
Trong cái thế giới dung thông đó, yếu tố thời gian không còn hiện hữu, vật chất
và tâm thức không còn là hai lĩnh vực độc lập tách biệt, tất cả hòa nhập trong
một nền tảng chung của Thế giới
nhất
thể,
của Thế giới
hoa
tạng,
của Duy thức
tính.
Ngài Pháp Tạng đã từng nói: “Một là
tất cả, tất cả là một.”
Các pháp vốn đồng thời tồn tại trong một hệ thống hỗ tức hỗ nhập, không có gì
tồn tại độc lập riêng biệt. Trong kinh Hoa
nghiêm,
Bồ-tát Phổ Hiền đã thuật lại cảnh giới dung nhiếp một là tất cả, tất cả là một
của Nhất chân pháp giới (一真法界)
như sau:
Năng lực uy thần/ của hạnh Phổ Hiền
làm tôi hiện khắp/ trước chư Như Lai,
một thân lại hiện/ thân như cực vi,
lạy khắp chư Phật/ cũng như cực vi.
Trong một cực vi/ có chư Phật đà
nhiều bằng cực vi/ và đều ở trong
chúng hội Bồ-tát/ cực vi tất cả
pháp giới vô tận/ cũng là như vậy,
tâm tôi tin Phật/ thật sâu và đầy.
Như vậy, từ sự tương đồng giữa Phật
giáo với các ngành khoa học về một thế giới Nhất thể dung nhiếp, rõ ràng con
người chúng ta cũng như tất cả các loài chúng sinh khác đang sống trong một hệ
thống liên quan mật thiết với nhau. Trong cái nhìn nhất thể như thế, tất cả đều
bình đẳng, không có sự cao thấp, khinh trọng. Tất cả đều hiện diện trong mối
quan hệ nhân quả đồng thời phóng xuất từ a-lại-da thức.
Một cá nhân cũng là tất cả cộng đồng, tất cả mọi loài. Mọi loài cũng đồng thời
hiện thân trong một cá thể. Do đó, bất kỳ hành động vì lợi ích cá nhân mà quên
đi số đông, mang tính tách rời nào cũng đều đi ngược lại cái Nhất thể đó. Bất kỳ
sự thiên vị nào cũng trái với lẽ đạo hằng nhiên.
Tài liệu tham khảo:
Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm
kinh: Nhập bất tư nghị giải thoát cảnh giới Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm
[大方廣佛華嚴經:
入不思議解脫境界普賢行願品].
Hán Dịch bởi Tam tạng Bát Nhã, Đại chính 10, số 293.
Bohm, David. Wholeness and the
Implicate Order. 1980.
Hộ Pháp, Bồ-tát. Thành Duy thức
luận [成唯識論].
Hán Dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 10 quyển, Đại Chính 31, số 1585.
Jung, C.G., Herbert Read, Michael
Fordham, & Gerhard Adler, eds. The Archetypes and the Collective Unconscious.
The Collected Works of C.G.Jung, vol. 9-part I. New York: Princeton University
Press, 1969.
———, eds. Mysterium Coniunctionis.
The Collected Works of C.G.Jung, vol. 14. New York: Princeton University Press,
1970.
Khuy Cơ, Sa-môn. Thành Duy thức
luận thuật ký [成唯識論述記].
10 quyển, Đại chính 43, số 1830.
Long Thọ, Bồ-tát. Trung luận [中論].
Hán dịch bởi Cưu-ma-la-thập. 4 quyển, Đại chính 30, số 1564.
McFarlane, Thomas J. "Quantum
Physics, Depth Psychology, and Beyond." The Center for Integral Science
(2000). http://www.integralscience.org/psyche-physis.html (accessed Nov 2,
2021).
Nāgārjuna. Mūlamadhyama-Kakārikāḥ.
Edited by J.W.de Jong. India: The Adyar Library and Research Centre, 1977.
Nguyễn Văn Hai, Hồng Dương. Nhân
quả đồng thời. Phương Đông, 2011.
Pháp Tạng, Sa-môn. Hoa nghiêm kinh
thám huyền ký [華嚴經探玄記].
Đại chính 35, số 1733.
Smetham, Graham P. "Bohm’s Implicate
Order, Wheeler’s Participatory Universe, Stapp’s Mindful Universe, Zurek’s
Quantum Darwinism and the Buddhist Mind-Only Ground Consciousness." Journal
of Consciousness Exploration & Research 1, no. 8 (2010): 1048-1069.
Stcherbatsky, Th. "Vasubandhu on the
Fundamental Principle of the Sarvāstivāda School." In Essays on Time in
Buddhism, edited by H.S.Prasad, 113-128. Delhi: Sri Satguru Publications,
1991.
Sthiramati. Triṃśikāvijñaptibhāṣya.
In Sthiramati's Triṃśikavijñaptibhāṣya - Critical Edition of the Sanskrit
Text and its Tibetan Translation. Edited by Hartmut Buescher. Wien: ÖAW,
2007.
Thế Thân, Tôn giả. Duy thức tam
thập luận tụng [唯識三十論頌].
Hán dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 1 quyển, Đại chính 31, số 1586.
———. Nhiếp Đại thừa luận thích
[攝大乘論釋].
Hán Dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 10 quyển, Đại chính 31, số 1597.
Trí Quang, Tỷ-kheo. Phẩm Hạnh
nguyện Phổ Hiền. NXB.Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh.
Vasubandhu.
Triṃśikāvijñaptikārikāḥ. In Seven Works of Vasubandhu. Edited by
Stephan Anacker. Rev ed., 422-3. Delhi: Motilal Banarsidass, 2005.
Vô Tánh, Bồ-tát. Nhiếp Đại thừa
luận thích [攝大乘論釋].
Hán dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 10 quyển, Đại chính 31, số 1598.
Vô Trước, Bồ-tát. Nhiếp Đại thừa
luận bổn [攝大乘論本].
Hán dịch bởi Pháp sư Huyền Trang. 3 quyển, Đại chính 31, số 1594.
Wilber, Ken. The Spectrum of
Consciousness. Wheaton, IL: Quest Books, 1993.