Thiền đạo và vẻ đẹp thi ca qua Ngữ lục của Thiền Lão thiền sư
thien dao
THIỀN ĐẠO VÀ VẺ ĐẸP THI CA
QUA NGỮ LỤC CỦA THIỀN LÃO THIỀN SƯ
PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LÝ*
1. Tài liệu xưa nhất hiện còn có nêu thông tin về Thiền sư Thiền Lão là
sách Thiền uyển tập anh ngữ lục (禪苑集英語綠),
chép hành trạng các thế hệ truyền thừa các dòng Thiền ở Việt Nam từ nửa cuối
thời Bắc thuộc cho đến các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý và đầu Trần (tức từ
cuối thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ XIII) với 68 tiểu truyện các vị thiền sư thuộc
hai dòng Thiền: dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi, dòng Vô Ngôn Thông; còn về dòng Thảo
Đường thì chỉ liệt kê tên các thế hệ truyền thừa. Tác phẩm có thể được viết từ
cuối thế kỷ XII, XIII và hoàn thành vào đầu thế kỷ XIV. Đây là bộ lịch sử Phật
giáo Việt Nam xưa nhất hiện còn với bản in lần đầu vào niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ
11 (năm 1715) đời Lê Dụ Tông.
Hiện chưa xác định rõ tác giả tập sách, mà theo nhiều nhà nghiên cứu thì sách có
thể do Thông Biện, Thường Chiếu, Thần Nghi, Ẩn Không (và Kim Sơn?) liên tục thay
nhau biên soạn.
Thiền Lão là mỹ hiệu để tôn vinh thiền sư, hiện chưa rõ danh tính, quê
quán, năm sinh năm mất và pháp hiệu
của ông. Chỉ biết ông thuộc thế hệ thứ 6 của dòng thiền Vô Ngôn Thông (dòng Quán
Bích, còn gọi là dòng Kiến Sơ), là đệ tử truyền thừa của Thiền sư Đa Bảo ở chùa
Kiến Sơ, rồi sau đó ông về tu ở chùa núi Từ Sơn (Bắc Ninh) và trở thành một vị
“thiền lão” nổi tiếng cả vùng. Vào khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038), vua
Lý Thái Tông (sinh 1000 - mất 1054; ở ngôi 1028-1054) thường đến viếng cảnh chùa
và đàm đạo với thiền sư. Nhà vua thấy sư là người uyên thâm, khoáng đạt nên rất
hâm mộ, định đón về làm cố vấn triều đình, nhưng chưa kịp thì ông mất. Nhà vua
thương tiếc, làm thơ viếng,
lại sai người đem lễ vật đến phúng và cho sửa sang chùa làm nơi thờ cúng ông. Về
tác phẩm, theo tư liệu hiện còn, thiền sư không để lại một tác phẩm hoàn chỉnh
nào, chỉ lại còn mấy câu đối đáp với vua Lý Thái Tông mà sách Thiền uyển tập
anh ngữ lục có chép. Sau đây là đoạn đối đáp giữa nhà vua và thiền sư:
“... Vua hỏi:
- Hòa thượng trụ trì ở núi này đã bao lâu?
Sư đáp:
- Đản tri kim nhật nguyệt,
Thùy thức cựu xuân thu.
但
知
今 日
月,
誰
識
舊 春
秋.
(Chỉ biết ngày tháng này, Ai rành xuân thu trước).
Vua hỏi:
- Hàng ngày Hòa thượng làm gì?
Sư đáp:
- Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh,
Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân.
翠
竹
黃 花
非
外 景,
白
雲
明 月
露
全 真.
(Trúc biếc, hoa vàng đâu cảnh khác,
Trăng trong, mây trắng hiện toàn chân).
Vua lại hỏi:
- Có ý chỉ gì?
Sư đáp:
- Nhiều lời vô ích!
Vua bừng tỉnh ngộ”.
2. Thế thì tư tưởng thiền và vẻ đẹp thi ca được thể hiện như thế nào qua hai câu
trả lời bằng thơ của Thiền Lão?
Để trả lời câu hỏi: “Hòa thượng trụ trì ở núi này đã bao lâu?” của nhà
vua, thì thiền sư đáp: “Đản tri kim nhật nguyệt, Thùy thức cựu xuân
thu”. Nhà vua muốn biết về thời gian trụ trì, tu tập của thiền sư tại núi Từ
Sơn thì sư lại nói về ngày tháng hiện tại, chứ không rõ xuân thu mùa trước, tức
chỉ biết thời gian hiện tại, chứ không biết thời gian quá khứ. Khái niệm “nhật
nguyệt” (ngày tháng), xuân thu (hai mùa trong năm) là hai hình ảnh chỉ quy luật
của thời gian tuyến tính. Mà thời gian tuyến tính thì một đi không trở lại! Nhà
vua hỏi về quá khứ, thiền sư lại nói về hiện tại, về cái “đang là”, “lúc này
đây”. Câu trả lời thật ý nhị, nhẹ nhàng, đúng như lời Phật dạy trong kinh văn.
Đức Phật thường khuyên các đệ tử hãy sống ngay trong giây phút hiện tại, không
nghĩ tới quá khứ và vị lai. Nếu người tu thiền không bận tâm, không nghĩ tới quá
khứ và vị lai thì tâm không bao giờ xao động, tức đã đạt đến trạng thái “vô
tâm”. Thói thường tự nhiên của người đời là hay nhớ nghĩ đến và thường kể lại
những chuyện đã qua, những việc ngày xưa hoặc hay tính toán, dự định, ước mơ
những việc tương lai. Do vậy mà, tâm (lòng) của người đời không bao giờ được
yên, tức luôn luôn loạn động, không bao giờ ngừng nghỉ. Đây là “cái bệnh” thường
gặp của thế nhân. Bởi tâm và ý của con người luôn rong ruổi chẳng khác nào như
con ngựa trên đường dài, như con vượn chuyền cành, mà trong thiền học thường
nhắc đến qua hình ảnh so sánh sinh động: Tâm viên ý mã. Nếu mọi người
biết buông xả quá khứ, không dự tính tương lai với những ước mơ hoài bão, mà chỉ
biết đến hiện tại, ngay giờ đây, lúc đang là, thì chắc chắn cái tâm (lòng) của
người ấy sẽ luôn bình thản, sẽ không bị loạn động, điên đảo, vọng tưởng. Qua sự
trả lời bằng hai câu thơ ngũ ngôn: Đản tri kim nhật nguyệt, Thùy thức cựu
xuân thu” (Chỉ biết ngày tháng này, Ai rành xuân thu trước), Thiền sư Thiền
Lão đã bày tỏ tâm trạng và thái độ sống của mình cho nhà vua biết. Và đây cũng
là lời thiền sư muốn “khuyên”, muốn “nhắc khéo” nhà vua về một thái độ sống, tu
tập, hành trì là đừng nghĩ tưởng những chuyện đã qua và chuyện sắp tới, mà phải
sống thật, sống hết mình với phút giây hiện tại. Đó là thái độ sống của một con
người tự tin, bình thản, lạc quan. Cái chất tự tin bình thản lạc quan ấy chính
là mẫu hình con người “vô tâm” (không nghĩ suy), “vô úy” (không sợ), “vô ngã”
(không có ta), “vong thân” (quên bản thân mình) của thời đại Lý - Trần. Con
người ta mỗi khi đã đạt đến tinh thần “vô tâm”, “vô úy”, “vô ngã” rồi thì không
cần cầu Thiền, cầu Phật làm gì. Điều này Diệu Nhân Ni sư đời Lý (tức công chúa
Lý Ngọc Kiều) đã phát biểu trong một bài kệ: “Thiền Phật bất cầu, Uổng khẩu
vô ngôn” (Không cầu Thiền Phật, Uổng lời không nói); hay như Phật hoàng Trần
Nhân Tông đã tổng kết trong bài kệ ở cuối bài phú chữ Nôm Cư trần lạc đạo:
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Trước cảnh mà lòng trống không thì đừng hỏi
thiền).
Tiếp theo, để trả lời câu hỏi: “Hàng ngày Hòa thượng làm gì?” của nhà vua,
thì thiền sư đáp: “Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh, Bạch vân, minh
nguyệt lộ toàn chân”. Ở đây, giữa câu hỏi và câu trả lời bề ngoài mới nghe
dường như không ăn nhập gì với nhau, có vẻ không lôgic. Đó là một dạng nghịch
ngữ mà các vị thiền sư hay dùng trong các Ngữ lục, các Công án để
khơi gợi trực giác, nhằm thức tỉnh người học đạo. Nhà vua muốn biết việc làm
hàng ngày của thiền sư, thì sư lại dùng những hình ảnh của thiên nhiên “trúc
biếc, hoa vàng, trăng trong, mây trắng” để trả lời! Tại sao thiền sư không lấy
những ngoại cảnh nào khác mà phải là “trúc biếc, hoa vàng”, là “trăng trong, mây
trắng”? Những hình ảnh này là hình ảnh ngoại cảnh có thật của thiên nhiên, của
thế giới hiện thực khách quan, thể hiện vẻ đẹp tự nhiên thường gặp trong văn
chương. Nhưng xin đừng hiểu rằng: trúc, hoa, trăng, mây là chân. Dù trúc có xanh
biếc tươi mơn mởn; hoa vàng có rực rỡ khoe sắc tỏa hương; trăng trong có tỏa
sáng vằng vặc; mây trắng có trôi lang thang bồng bềnh, thì tất cả đều là những
đối tượng hiện thực có thật trong thế giới tự nhiên mà ai ai cũng thấy, cũng
từng ngắm nhìn. Nếu nói nó là thật thì có trái với tư tưởng nhà Phật không? Và
khi đã có hình tướng thì không thể thoát khỏi quy luật sinh hóa vô thường. Bởi
trong kinh văn, Đức Thế Tôn thường dạy: Tất cả các pháp hữu vi (thế giới hiện
thực khách quan) đều không phải là thực tướng, chúng chẳng khác nào như giấc
chiêm bao, như bóng nổi trên mặt nước, như giọt sương đọng lại trên đầu ngọn cỏ,
như ánh chớp trên bầu trời... mà Vạn Hạnh thiền sư (? – 1018) đời Tiền Lê, đời
Lý đã từng tiếp thu và phát biểu trong một bài kệ trước phút lâm chung.
Trong kinh Kim cang bát-nhã ba-la-mật - một bộ kinh thuộc văn hệ Bát-nhã
của Phật giáo Đại thừa - có bài kệ: “Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn
bào ảnh, Như lộ diệc như điện, Ưng tác như thị quán” mang nội dung vừa nói
trên. Con người thấy trước mắt trúc có màu xanh, hoa có màu vàng, trăng thì
trong, mây thì trắng, đứng ở góc độ “sự pháp giới” thì đó là nhận ra cái chân
của hiện tượng, nhưng đứng ở góc độ “lý pháp giới” thì nó là giả tướng, là huyễn
tưởng, vì chúng không tồn tại vĩnh viễn. Con người mỗi khi nhận thức hiện tượng
“lúc đang là” mà tâm không khởi niệm, không nghĩ tưởng thì đó là CHÂN, tức thấy
rõ được bản thể, thấu triệt được thực tướng của hiện tượng, của các pháp hữu vi,
thì lúc đó sẽ không phân biệt đẹp xấu, không bình luận khen chê. Nếu nghĩ tưởng
rằng: trúc, hoa, trăng, mây đều là chân, hay bất cứ hiện tượng khách quan nào
cũng đều là chân, thì đó là một nhận thức sai lầm. Thật ra, mấy thứ đó, chúng là
chúng, chúng không tự nói ra là CHÂN hay VỌNG, là THẬT hay ẢO. Chân - vọng, thật
- ảo là do cái tâm con người khởi niệm, suy tưởng mà có. Khi tâm khởi niệm, suy
tưởng tức là bị loạn động, điên đảo, nên thấy bất cứ hiện tượng nào cũng biến
thiên loạn động. Hai câu thơ thất ngôn giàu hình ảnh văn chương mà thiền sư trả
lời cho nhà vua chính là nói lên cái tâm chân như của thiền sư luôn lặng lẽ,
tịch tĩnh, bất động. Vì thế mà thiền sư nhìn bất kỳ hiện tượng nào cũng thấy
được cái tĩnh tại của chúng, rõ được bản thể chân như của chúng. Mà khi tâm tịch
tĩnh lặng lẽ, thấy được bản thể chân như thì đó chính là Phật tính. Nói như Quốc
sư Viên Chứng Trúc Lâm Đại Sa-môn trong lời khuyên vua Trần Thái Tông, khi nhà
vua bỏ ngôi lên núi Yên Tử cầu Phật: “Tâm tịch nhi tri, thị danh chân Phật”
(Lòng lặng lẽ mà biết, đó chính là Phật vậy). Thế thì, để trả lời cho vua Lý
Thái Tông, Thiền sư Thiền Lão đã dùng những hình ảnh thi ca sinh động đẹp đẽ để
biểu đạt cái ý ngoại cảnh và tâm cảnh là một, nội giới với ngoại giới không phải
là hai, thể hiện cái Tâm không phân biệt, tức Tâm và Pháp nhất như. Đây
chính là tinh thần vô phân biệt trong kinh Hoa nghiêm.
Tóm lại, những tư tưởng uyên áo, uẩn súc, vi diệu của Thiền được Thiền sư Thiền
Lão nói riêng, các vị thiền sư khác nói chung, thường chuyển tải bằng hình ảnh
thi ca diễm lệ, sinh động, mà chúng ta hay bắt gặp trong kinh văn nhà Phật,
trong các thi - kệ, công án, ngữ lục của văn học Phật giáo Việt Nam, văn học
Phật giáo Trung Quốc.
* Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG TP.HCM
Tài liệu tham khảo:
1. Thiền
uyển tập anh ngữ lục, chữ Hán, bản in Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), ký hiệu
A.3144.
2. Nguyễn
Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý - Trần: diện mạo và đặc điểm, NXB.ĐHQG
TP.HCM, 2002, tái bản lần 5 (có bổ sung) 2016.
3. Thích
Thanh Từ, Tham đồ hiển quyết và thi tụng các thiền sư đời Lý, NXB.TP.HCM
- Thiền viện Thường Chiếu, Phật lịch 2541- Dương lịch 1997.
4. Viện Văn
học, Thơ văn Lý - Trần, Tập 1, NXB.KHXH, HN, 1977.