Vận mạng của một thực 
		thể đi qua trong nhận 
		thức được giới 
		hạn ở hai đầu sinh và diệt, đoạn và thường của không 
		gian và thời 
		gian; thực 
		thể đó cũng được giới 
		hạn trong những phạm 
		trù đi và đến, một và nhiều của tự thể và tha thể.
		
		Vì tính 
		chất mâu 
		thuẫn và đối 
		lập của tri 
		thức, nên người ta khám 
		phá ra sự bất lực của nó đối với tương quan thực 
		thể. Mọi cố 
		gắng của tư 
		duy là làm thế nào mà nhìn thẳng được vào trong tận cùng của thực 
		thể. Nhưng vượt 
		qua những bức tường kiên 
		cố của tri 
		thức, được dựng lên với những phạm 
		trù lý 
		trí, quả là khó khăn, và cũng có thể nói là nguy hiểm. Thực 
		thể như luôn luôn bị bao phủ bởi những lớp mù của vọng 
		kiến. Trong hai tri 
		thức còn nằm trong tình 
		trạng bị lôi kéo bởi những phạm 
		trù, thực 
		thể như một bóng mờ thấp 
		thoáng ẩn hiện. Tri 
		thức có thể khám 
		phá ra nhiều khía cạnh của thực 
		thể xuất 
		hiện trên những bình diện tướng và dụng, nhưng khía cạnh này xuất 
		hiện cùng 
		lúc với khía cạnh kia, trùng 
		trùng vô 
		tận, nên rốt 
		cuộc tri 
		thức cũng như con kiến bò quanh trên miệng chén.
		
		Thể, tướng và dụng là ba cấp độ xuất 
		hiện của một thực 
		thể, đồng 
		thời đấy cũng là ba cấp độ của tri 
		thức. Thực 
		thể trong nhận 
		thức nằm trên bình diện hiện 
		sinh, nó luôn luôn được đặt trước những thắc mắc vô 
		cùng về ý 
		nghĩa sự xuất 
		hiện của nó. Khi mà tri 
		thức nắm lấy thực 
		thể trên giai tầng biểu 
		thị này, thực 
		thể luôn luôn bị bóp 
		méo cho phạm 
		trù ý 
		nghĩa. Trí 
		thức bóp 
		méo nó đi, nghĩa là tri 
		thức không nhìn thực 
		thể ấy như là thực 
		thể, mà thực 
		thể ấy sẽ được làm gì? Ta gọi đó là dụng của một thực 
		thể nằm trên giai tầng hiện 
		sinh.
		
		Chính giai tầng hiện 
		sinh này đã quyết 
		định tất cả vận mạng của một thực 
		thể đối với tri 
		thức, không phải thực 
		thể được chia làm ba giai tầng thể, tướng và dụng, nhưng chính 
		bởi tùy 
		theo cấp độ của tri 
		thức mà thực 
		thể xuất 
		hiện dưới ba giai tầng đó. Chính vì tính 
		chất phạm 
		trù của tri 
		thức, mà thực 
		thể bị tàng ẩn sau những lớp lầy vọng 
		kiến và cũng chính bởi tính 
		chất phạm 
		trù đó mà tri 
		thức đã liên 
		kết thực 
		thể này với thực 
		thể kia để trả 
		lời cho ý 
		nghĩa hiện 
		hữu của nó, hiện 
		hữu của con 
		người với thực 
		thể và tri 
		thức bị đặt quay lưng lại với 
		nhau. Sự liên 
		kết thực 
		thể này với thực 
		thể khác tạo nên tínhh chất mâu 
		thuẫn và đối 
		lập trong ý 
		nghĩa xung 
		đột của thực 
		thể. Xung động này làm nẩy sinh muôn nghĩa hoa 
		đốm, đấy là những ảo 
		giác về thực 
		thể và chính bản 
		thân của thực 
		thể rơi vào trong tận cùng bí 
		ẩn. Chúng 
		ta nên biết, ý 
		hướng của triết lý Trung 
		quán là đưa nhãn quan trở 
		về với trí 
		thức như là thực 
		tại và thực 
		tại như là thực 
		tại. Nhưng sự chạy 
		trốn của tri 
		thức trước những bí 
		ẩn của thực 
		thể đã đẩy thực 
		thể xuất 
		hiện trên bình diện hiện 
		sinh. Nói thế là ta đã nhấn 
		mạnh rằng mỗi sự xuất 
		hiện qua nhận 
		thức sẽ bị đòi hỏi có một tác 
		dụng nào đó. Như vậy, tri 
		thức không còn như thực 
		tại và thực 
		tại cũng không còn như là thực 
		tại. Sự 
		kiện đó cho ta hay rằng tri 
		thức của con 
		người vượt ra ngoài thực 
		thể của con 
		người để nhìn lại con 
		người như là một thực 
		thể biệt lập.
		
		Bình diện hiện 
		sinh không phải chỉ giới 
		hạn ở con 
		người. Bình diện hiện 
		sinh là dụng của thực 
		thể. Thực 
		thể nói chúng. Nhưng chính chúng 
		ta là một thực 
		thể và chắc 
		chắn sẽ không bao giờ vượt 
		qua giới 
		hạn đó. Mọi sự xuất 
		hiện chung quanh ta sẽ được tri 
		thức bóp 
		méo đi để biến 
		thành tác 
		dụng, và chính chúng 
		ta cũng chỉ là một thực 
		thể chỉ được xuất 
		hiện trước cái dụng đó. Vì thế, khi tri 
		thức của ta đang bị đóng khung vào cái dụng của thực 
		thể, thì thực 
		thể của chính chúng 
		ta và tất cả những thực 
		thể xung 
		quanh đều bị đẩy ra trình 
		diện trên lớp hiện 
		sinh.
		
		Đối với tri 
		thức, tác 
		dụng của một thực 
		thể là vận mạng quyết 
		định của thực 
		thể đó. Thượng 
		đế là một thực 
		thể với vai 
		trò sáng 
		tạo nằm trên chót và ở ngoài thực 
		thể đang nghĩ về nó, Thượng 
		đế ấy chính là ảo 
		giác của nhận 
		thức trên đoạn đường mới của những thực 
		thể xuất 
		hiện dưới khía cạnh dụng của nó, trên bình diện hiện 
		sinh. Chính vì lý 
		do đó mà thượng 
		đế, đã đóng vai 
		trò quyết 
		định cho vận mạng của tư 
		tưởng loài 
		người.
		
		Trên mặt phẳng hiện 
		sinh không có một thực 
		thể duy 
		nhất mà có nhiều thực 
		thể xuất 
		hiện cùng 
		lúc. Chúng nằm cạnh nhau; bởi vì chúng nằm cạnh nhau cho nên tri 
		thức với tính 
		chất phạm 
		trù đã chịu 
		khó phân chúng ra từng loại. Quả vậy, với chúng 
		ta, không có một vật nằm riêng rẽ nào, mà luôn luôn là vật này 
		nằm cạnh vật kia. Tri 
		thức đặt lên một sự vật nào thì những sự vật khác cũng đồng 
		thời đeo theo trong một chuỗi dài của sự vật đi qua nhận 
		thức. Nhận 
		thức đó luôn luôn bị đeo níu, chắc 
		chắn là vậy. Bị đeo níu là vì sự vật qua nó bằng tính 
		chất đối 
		lập và mâu 
		thuẫn. Bất cứ ở bình diện nào, hiện 
		sinh hay không hiện 
		sinh, và dù có nằm trong tính 
		chất lưỡng phân tri 
		thức lúc nào cũng tương quan với thực 
		tại. Vì thế mà mâu 
		thuẫn và đối 
		lập trở 
		thành đặc 
		tính căn 
		bản của tri 
		thức. Cố nhiên là tri 
		thức với những lớp vô 
		minh dày đặc.
		
		
		Tính chất đối 
		lập và mâu 
		thuẫn của tri 
		thức đó tạo cho thực 
		thể có một vận mạng được giới 
		hạn bởi những hai đầu sinh-diệt, đoạn 
		thường, khứ-lai, và nhất-dị.
		
		
		Hiện sinh và ý 
		nghĩa sống còn của một thực 
		thể. Sống còn trong tri 
		thức. Sự sống và những vấn 
		đề chung quanh sự sống là môi trường cho mọi thứ xung động hiện 
		khởi. Trong quá trình sinh 
		thành của một thực 
		thể, đặt trên những luận tắc của lý 
		trí, quá trình ấy là biện 
		chứng sinh 
		thành và hủy diệt. Cho nên, sự sống của một kẻ này phải là sự 
		chết của một kẻ khác. Trên đại 
		đồng, cố nhiên sự hủy diệt của một quốc 
		gia này chính là sự sinh 
		thành của một quốc 
		gia khác. Sự xung động ấy do bàn tay của tri 
		thức mó vào.
		
		Như vậy, biểu 
		thị của dụng như là sự kết 
		hợp giữa hai thực 
		thể xung động tạo sinh 
		thành hủy diệt. Thực 
		thể sẽ thay đổi biểu 
		thị của nó trên mặt phẳng xuất 
		hiện cho tri 
		thức. Đó là những tướng của thực 
		thể.
		
		
		Yêu cầu sinh 
		tồn của một thực 
		thể lập cước trên hiện 
		sinh của dụng, và những xung động tất yếu của thực 
		thể để làm nên sự sinh 
		tồn đó lập cước trên hiện 
		hữu của tướng.
		
		“Pháp nhĩ như thị” là thực-tại-như-là-thực-tại của thể. Thể 
		không đóng kín. Nhưng những biểu 
		thị của thể qua hiện 
		hữu của tướng luôn luôn bị tri 
		thức với những phạm 
		trù lý 
		trí loạt biệt, để tạo nên thế sinh 
		tồn cho thực 
		thể qua hiện 
		sinh của dụng. Khi mà thể xuất 
		hiện trong tri 
		thức qua hiện 
		hữu của tướng thì thể đó không còn là thực 
		thể với chính nó mà là những thực 
		thể liên 
		kết. Thực 
		thể này nằm cạnh thực 
		thể kia, như ly nước ở trên bàn, bàn ở trong phòng, phòng ở trong 
		nhà, nhà ở trong thế 
		giới. Thực 
		thể liên 
		kết thành một chuổi dài để xuất 
		hiện trong tri 
		thức. Tri 
		thức đó luôn luôn có những cái nhìn bị đeo níu trùng 
		trùng vô 
		tận. Nhưng nếu các thực 
		thể liên 
		kết trùng 
		trùng vô 
		tận đó không được tri 
		thức uốn 
		nắn để sắp 
		đặt trên một trình tự diễn biến, tri 
		thức sẽ trở 
		thành vô 
		dụng. Cho nên, phạm 
		trù lý 
		trí là đặc 
		tính căn 
		bản của tri 
		thức.
		
		
		Phương pháp của Phật 
		giáo A-tì-đàm là phương 
		pháp phân tích. Họ có lý để nói rằng các pháp 
		như một đám hoa hỗn 
		độn, xấu có tốt có, thiện 
		ác chỉ cách 
		biệt trong đường tơ kẽ tóc, nếu 
		không có sự trạch diệp thì tri 
		thức sẽ không được hướng dẫn đứng 
		đắn trên đường gạn 
		lọc vô 
		minh.
		
		
		Yêu sách phân tích đó cũng nằm trong phạm 
		trù lý 
		trí. Quá trình 
		diễn biến của một thực 
		thể đặt trên đoạn đường nhân 
		duyên quả. Quá trình đó làm khơi dậy ý 
		niệm về thời 
		gian. Và chính ý 
		niệm thời 
		gian cho ta khái niệm về tính 
		chất vận 
		hành của thực 
		thể. Nhưng vận 
		hành này chỉ được biểu hiện qua mặt hiện 
		sinh của dụng của một thực 
		thể. “A-tỳ-đạt-ma” nói với pháp khi có tác 
		dụng thì sinh, khi hết tác 
		dụng thì diệt. Sinh 
		diệt là dấu hiệu của vận 
		hành.
		
		
		Tuy nhiên vấn 
		đề là phải đi sâu vào gốc rễ, đi 
		vào trong tận cùng thực 
		thể. Đắc 
		thế thì sinh thất thế thời diệt, như luận Tỳ-bà-sa đã nói, chỉ 
		cho ta nhìn được thực 
		thể bị méo mó thì tùy 
		theo cấp độ méo mó của tri 
		thức. Nhưng ta đã nói ý 
		hướng triết lý của Trung 
		quán nhắm tới tri 
		thức như là thực 
		tại và thực 
		tại như là thực 
		tại, thì vấn 
		đề thanh trừng những giai tầng ảo 
		hóa của thực 
		tại, cho thực 
		thể xuất 
		hiện với yếu tính của nó như là nó.
		
		
		Tri thức và thực 
		tại luôn luôn song hành, kể từ khởi điểm gạn 
		lọc cho 
		đến chót đường gạn 
		lọc. Vì thế, yếu tính của thực 
		thể không phải tự nó trình bày, nhưng là do tri 
		thức trình bày. Với điều đó, ta thấy phương 
		pháp “biến thiên 
		thực thể” trong hiện 
		tượng học của Husserl không đẩy được thực 
		thể ra trình 
		diện trước ánh sáng. Sự biến 
		thiên ấy chỉ nhắm được biểu 
		thị hiện 
		hữu tướng của thực 
		thể. Như vậy, yếu tính tối 
		hậu, được xem 
		như là yếu tính của thực 
		thể do phương 
		pháp biến 
		thiên ấy, chỉ là hiện 
		sinh dụng của thực 
		thể do tri 
		thức liên 
		kết những tướng biểu 
		thị của thực 
		thể mà có. Vậy 
		thì cuối 
		cùng thực 
		thể vẫn bị chôn chân dưới lớp dày huyển hóa.
		
		
		
		Khám phá ra thể của thực 
		thể không phải là vấn 
		đề không quan trọng. Nó định rõ được hướng đi của tri 
		thức.
		
		
		Vấn đề liên 
		quan đến yếu tính của thực 
		thể. Qua những trình bày trên, ta thấy rằng yếu tính ấy không 
		phải được xác định bằng những tác 
		động của một thực 
		thể. Như ta đã biết, tác 
		động của một thực 
		thể là do sự xung động về những tướng của các thực 
		thể, không phải thể của thực 
		thể nầy xung động với thể của thực 
		thể kia, mà do tri 
		thức đặt tướng của thực 
		thể này cạnh tướng của thực 
		thể kia, để làm xuất 
		hiện những tác 
		động của khía cạnh dụng của thực 
		thể trên bình diện hiện 
		sinh, theo định 
		luật biện 
		chứng của mâu 
		thuẫn và đối 
		lập.
		
		Bỏ đi khía cạnh dụng của thực 
		thể, thì các tướng của thực 
		thể được tri 
		thức liên 
		kết lại sẽ thiếu mất hợp đề, thành ra các tướng ấy bị đặt trong tình 
		trạng phao khí (déréclition), và cũng từ đó mọi ý 
		nghĩa hiện 
		hữu của một thực 
		thể lẫn tránh đi đâu để cho hiện 
		sinh của chúng tan ra từng mảnh.
		
		
		Ý nghĩa vận 
		hành của thực 
		thể được dự 
		kiến như là yếu tính của thực 
		thể. Khi chúng 
		ta gạt bỏ đi khía cạnh dụng của thực 
		thể thì các tướng thiếu sự liên 
		kết hợp đề, nhưng với tri 
		thức, chúng vẫn xuất 
		hiện và vẫn 
		có tác 
		động, nhưng không có tác 
		dụng, cho nên chúng 
		hiện hữu một cách trơ 
		trọi, lầm lỳ hay có vẻ ngang 
		bướng. Vả lại nhân 
		duyên quả như luật tắc cố định cho nhận 
		thức, cho nên, mặc dù không có tác 
		dụng nhưng có tác 
		động của các tướng, thì thực 
		thể vẫn như bị trôi trong những phạm 
		trù sinh-diệt, đoạn-thường, và đó là ý 
		nghĩa vận 
		hành của một thực 
		thể trên những giai tầng huyễn 
		hóa.
		
		Luật nhân 
		duyên quả của nhận 
		thức xác định các chiều không 
		gian và thời 
		gian của thực 
		thể. Không phải chỉ với thời 
		gian mà đủ làm ý 
		nghĩa vận 
		hành của một thực 
		thể; song song với nó là cả không 
		gian.
		
		Không có không 
		gian của một thực 
		thể, nhưng của nhiều thực 
		thể. Mỗi thực 
		thể, cố nhiên là ta chỉ giới 
		hạn được nhận 
		thức về tướng mà thôi, được biểu 
		thị với một trường độ nào đó. Chính trương độ ấy đặt một thực 
		thể này giao tiếp với những thực 
		thể khác theo ba chiều của một thực 
		thể quanh nó. Sự giao tiếp ấy là những tác 
		động của thực 
		thể. Tác 
		động không cần biết có dẫn đến tác 
		dụng hay không nhưng vẫn tạo ra khái niệm về ý 
		nghĩa vận 
		hành của thực 
		thể.
		
		
		Tri thức có thể nhận 
		ra thực 
		thể này nằm cạnh thực 
		thể kia trong tình 
		trạng phao khí. Nhận 
		thức này có thể tạo ra ảo 
		giác cho tri 
		thức rằng: sự vật như thế là như thế. Tuy 
		nhiên, không phải gạt bỏ tác 
		dụng của thực 
		thể thì bản 
		thân của thực 
		thể xuất 
		hiện. Bởi vì tri 
		thức dự 
		tính rằng sự vật nó như thế là như thế, nên khi thực 
		thể bị rơi mất tác 
		dụng thì tướng của nó trở 
		thành rời rạc, có vẻ rằng nó như thế là như thế. Tác 
		dụng của một thực 
		thể là quyết 
		định vận mạng của một thực 
		thể, nhưng không xác định được yếu tính của một thực 
		thể. Ý 
		nghĩa vận 
		hành của thực 
		thể cũng chỉ là dự 
		kiến của tri 
		thức. Vì khi tri 
		thức biết rằng nhận 
		thức luôn luôn đeo níu bởi những trường giang đại 
		hải sự vật, nó được yêu 
		cầu phải làm thế nào nhìn thẳng vào sự vật nó như là nó. Bởi 
		vậy, thực 
		thể luôn luôn ở trong trạng 
		thái sẽ trở 
		thành. Sẽ trở 
		thành tức là thực 
		thể đang vận 
		hành. Cố nhiên với ý 
		nghĩa vận 
		hành này, ta thấy yếu tính của một thực 
		thể được xác định bởi những tác 
		động và tác 
		dụng của chúng. Và với chúng 
		ta, thực 
		thể vẫn còn nằm trong tận cùng bí 
		ẩn.
		
		
		Chúng ta thấy rằng vì yêu 
		cầu liên 
		kết những tướng của thực 
		thể cho nhận 
		thức nên thực 
		thể luôn xuất 
		hiện dưới tri 
		thức trong trương độ của nó. Vì 
		vậy người ta nói rằng không có không 
		gian thì không thấy thực 
		thể cho nên không 
		gian như là yếu tính thực 
		thể. Tuy 
		nhiên, với chúng 
		ta, đấy không phải là chính bản 
		thân của thực 
		thể mà chỉ là những tướng của thực 
		thể mà thôi.
		
		
		Nhận thức về ý 
		nghĩa vận 
		hành của thực 
		thể, chúng 
		ta cũng chỉ nhận 
		ra ý 
		nghĩa đó qua trình 
		diện hiện 
		hữu tướng của thực 
		thể mà thôi.
		
		
		Tri thức mà từ chối không tiếp 
		đón những tác 
		dụng của thực 
		thể thì chỉ có kéo lôi con 
		người vào một hoang mang hổn loạn đối với ý 
		nghĩa hiện 
		hữu của chính mình. Nhưng nếu nó từ chối luôn không tiếp 
		nhận có những tác 
		động của thực 
		thể, bấy giờ không 
		gian sẽ băng hoại và thời 
		gian sẽ gãy 
		đổ, con 
		người sẽ tự thấy đứng trước một vũ 
		trụ hư 
		vô bao 
		la dày đặc. Ý 
		nghĩa của cuộc sống hiện 
		ra với con 
		người bằng những kinh mang tột độ. Người ta sẽ ôm cái bí 
		ẩn ấy trọn 
		đời vào chết trong cái bí 
		ẩn kinh mang tột độ ấy. Mọi xác định về yếu tính xem 
		như là yếu tính đích thực của thực 
		tại, với chúng 
		ta, chỉ là những dự 
		kiến, không hơn không kém.
		
		Những quảng đường của không 
		gian bị gẫy đổ là do yêu 
		cầu của tri 
		thức về nhận 
		thức ra bản 
		thân của mình thực 
		thể và yếu tính của thực 
		thể xuất 
		hiện trong tri 
		thức phạm 
		trù là những đối 
		lập và mâu 
		thuẫn tuyệt 
		vời của nhận 
		thức. Đấy là những kinh mang tột độ. Người ta bị đối chọi giữa 
		hai ý 
		niệm, một là những yêu 
		cầu đóng khung trong phạm 
		trù lý 
		trí, với không 
		gian và thời 
		gian và một nữa, là chối bỏ mọi bình diện của thực 
		thể để cho yêu 
		cầu thực 
		thể như là nó. Ở đây, chính bởi tri 
		thức và thực 
		tại song lập. Thực 
		tại xuất 
		hiện lầm lì tự nó, và tri 
		thức cũng muốn để tự thực 
		tại vận 
		hành với yếu tính của nó; nhưng tri 
		thức vẫn để lên thực 
		tại với những phạm 
		trù lý 
		trí. Chúng 
		ta phải đợi khi nào tri 
		thức như là thực 
		tại và thực 
		tại như là thực 
		tại. Tất cả vấn 
		đề của chúng 
		ta là ở đó.
		
		
		Ý niệm thời 
		gian và không 
		gian đối với một thực 
		thể chỉ xuất 
		hiện trên bình diện hiện 
		sinh bằng những tác 
		dụng của thực 
		thể. Thực 
		thể là có tác 
		động, nhưng nếu 
		không có tác 
		dụng thì thực 
		thể ấy dù có vận 
		hành nhưng không vận 
		hành trong không 
		gian và thời 
		gian. Giản lược được không 
		gian và thời 
		gian trong nhận 
		thức đối với thực 
		thể chưa phải là khám 
		phá ra thực 
		thể toàn bích và toàn 
		diện. Tư 
		tưởng chúng 
		ta phần lớn bị chặn đứng ở giai tầng hiện 
		tướng của thực 
		thể và cho rằng đó chính là thực 
		tại, hay thực 
		thể toàn bích và toàn 
		diện. Do theo đây mà chúng 
		ta có thể đánh 
		giá cấp độ tàn phế của trí 
		thức qua các giai tầng huyển hóa của thực 
		tại, và cố nhiên ở đó cũng xác định luôn trình 
		độ tư 
		tưởng.
		
		Luôn luôn chúng 
		ta bắt đầu mọi hiểu 
		biết nằm trong phạm 
		vi ý 
		nghĩa tác 
		dụng của thực 
		thể. Hiểu 
		biết của chúng 
		ta bao giờ cũng nhắm đến kết quả trước. Kết quả ấy tự hình thành 
		một cách mặc 
		nhiên và xãy ra đúng quy 
		tắc của lý 
		trí đặt ra. Trong khi tìm 
		hiểu vấn 
		đề, tìm 
		hiểu đó ít có giá 
		trị khám 
		phá ra thực 
		thể toàn bích và toàn 
		diện, nhưng ta chỉ tìm 
		thấy những xung động phát xuất do sự giao tiếp của tướng của các thực 
		thể. Xung động ấy sẽ được hướng dẫn đúng 
		đắn theo luật tắc nhân 
		duyên quả của tri 
		thức, nhắm vào tiêu điểm kết quả đã đượng dụng lên từ trước. Vậy 
		thì, mọi khám 
		phá, nếu 
		không phải đào lấp được đến tận cùng ý 
		nghĩa của thực 
		thể, những khám 
		phá ấy chỉ có nghĩa là hoàn 
		thành những gì mà tri 
		thức dự 
		tính. Chắc 
		chắn nó không có nghĩa khám 
		phá như ta hiểu thông thường là tìm 
		thấy một điều nào đó xẩy ra ngoài những gì mà tri 
		thức đã biết. Nhưng chúng 
		ta cũng có thể hay rằng khám 
		phá mà không nhìn thấy yếu tính thực 
		thể của điểm khám 
		phá, thì những lạ lùng ấy chỉ là những xung động của tướng của 
		các thực 
		thể phát ra. Tất nhiên ta hiểu rằng những xung động không nằm 
		trong luật tắc của tri 
		thức, chỉ có tác 
		dụng mới được tri 
		thức bóp 
		méo đi. Nhưng tác 
		động của tướng của thực 
		thể cũng chịu chung số phận như thế. Tri 
		thức sẽ biến những xung động ấy thành tác 
		dụng.
		
		
		Vận hành của một thực 
		thể như là biểu 
		thị của thực 
		thể đó, bởi vì thực 
		thể được biểu 
		thị qua khía cạnh tướng của bình diện hiện 
		hữu; và nếu mà ta gở bỏ được những khung thời 
		gian và không 
		gian đóng trong nhận 
		thức, thì chúng 
		ta vẫn chỉ có thể 
		không chấp 
		nhận tác 
		dụng của thực 
		thể. Đời 
		sống quên cả không 
		gian quên cả thời 
		gian đối với ta quả thực là đời 
		sống quá ư vĩ đại và chúng 
		ta khó khăn lắm, nếu 
		không phải là chịu 
		đựng thử 
		thách phi 
		thường thì khó mà thực 
		hiện; nhưng chúng 
		ta lại biết rằng như thế chỉ mới nhìn vào tác 
		động đơn 
		thuần của một thực 
		thể, mà chưa khám 
		phá ra ý 
		nghĩa của thực 
		thể. Nói 
		vắn tắt, nếu ta gọi tùy 
		theo cấp độ của tri 
		thức mà thực 
		thể xuất 
		hiện dưới ba tầng thể, tướng và dụng, thì tư 
		tưởng của chúng 
		ta mới chỉ dừng lại ở tướng. Thể vẫn bị che 
		lấp sau bức tường vọng 
		kiến của tri 
		thức. Ý 
		nghĩa của thể ấy như thế nào, chúng 
		ta chỉ có thể dự 
		kiến nhưng dự 
		kiến ấy như một trường thành bao giờ cũng cản chân 
		không cho ta bước vào trong tận cùng thực 
		thể. Rút 
		lại chỉ còn vấn 
		đề phương 
		pháp mà thôi. Phương 
		pháp ấy xác định hướng đi của tri 
		thức, nó không dự 
		kiến thế nào về thực 
		thể. Và đó chính là điểm độc đáo nhất của Trung 
		quán.
		
		Tuệ Sỹ
		
		[Tạp 
		chí Tư Tưởng số 1 – 1967]