Vận mạng của một thực
thể đi qua trong nhận
thức được giới
hạn ở hai đầu sinh và diệt, đoạn và thường của không
gian và thời
gian; thực
thể đó cũng được giới
hạn trong những phạm
trù đi và đến, một và nhiều của tự thể và tha thể.
Vì tính
chất mâu
thuẫn và đối
lập của tri
thức, nên người ta khám
phá ra sự bất lực của nó đối với tương quan thực
thể. Mọi cố
gắng của tư
duy là làm thế nào mà nhìn thẳng được vào trong tận cùng của thực
thể. Nhưng vượt
qua những bức tường kiên
cố của tri
thức, được dựng lên với những phạm
trù lý
trí, quả là khó khăn, và cũng có thể nói là nguy hiểm. Thực
thể như luôn luôn bị bao phủ bởi những lớp mù của vọng
kiến. Trong hai tri
thức còn nằm trong tình
trạng bị lôi kéo bởi những phạm
trù, thực
thể như một bóng mờ thấp
thoáng ẩn hiện. Tri
thức có thể khám
phá ra nhiều khía cạnh của thực
thể xuất
hiện trên những bình diện tướng và dụng, nhưng khía cạnh này xuất
hiện cùng
lúc với khía cạnh kia, trùng
trùng vô
tận, nên rốt
cuộc tri
thức cũng như con kiến bò quanh trên miệng chén.
Thể, tướng và dụng là ba cấp độ xuất
hiện của một thực
thể, đồng
thời đấy cũng là ba cấp độ của tri
thức. Thực
thể trong nhận
thức nằm trên bình diện hiện
sinh, nó luôn luôn được đặt trước những thắc mắc vô
cùng về ý
nghĩa sự xuất
hiện của nó. Khi mà tri
thức nắm lấy thực
thể trên giai tầng biểu
thị này, thực
thể luôn luôn bị bóp
méo cho phạm
trù ý
nghĩa. Trí
thức bóp
méo nó đi, nghĩa là tri
thức không nhìn thực
thể ấy như là thực
thể, mà thực
thể ấy sẽ được làm gì? Ta gọi đó là dụng của một thực
thể nằm trên giai tầng hiện
sinh.
Chính giai tầng hiện
sinh này đã quyết
định tất cả vận mạng của một thực
thể đối với tri
thức, không phải thực
thể được chia làm ba giai tầng thể, tướng và dụng, nhưng chính
bởi tùy
theo cấp độ của tri
thức mà thực
thể xuất
hiện dưới ba giai tầng đó. Chính vì tính
chất phạm
trù của tri
thức, mà thực
thể bị tàng ẩn sau những lớp lầy vọng
kiến và cũng chính bởi tính
chất phạm
trù đó mà tri
thức đã liên
kết thực
thể này với thực
thể kia để trả
lời cho ý
nghĩa hiện
hữu của nó, hiện
hữu của con
người với thực
thể và tri
thức bị đặt quay lưng lại với
nhau. Sự liên
kết thực
thể này với thực
thể khác tạo nên tínhh chất mâu
thuẫn và đối
lập trong ý
nghĩa xung
đột của thực
thể. Xung động này làm nẩy sinh muôn nghĩa hoa
đốm, đấy là những ảo
giác về thực
thể và chính bản
thân của thực
thể rơi vào trong tận cùng bí
ẩn. Chúng
ta nên biết, ý
hướng của triết lý Trung
quán là đưa nhãn quan trở
về với trí
thức như là thực
tại và thực
tại như là thực
tại. Nhưng sự chạy
trốn của tri
thức trước những bí
ẩn của thực
thể đã đẩy thực
thể xuất
hiện trên bình diện hiện
sinh. Nói thế là ta đã nhấn
mạnh rằng mỗi sự xuất
hiện qua nhận
thức sẽ bị đòi hỏi có một tác
dụng nào đó. Như vậy, tri
thức không còn như thực
tại và thực
tại cũng không còn như là thực
tại. Sự
kiện đó cho ta hay rằng tri
thức của con
người vượt ra ngoài thực
thể của con
người để nhìn lại con
người như là một thực
thể biệt lập.
Bình diện hiện
sinh không phải chỉ giới
hạn ở con
người. Bình diện hiện
sinh là dụng của thực
thể. Thực
thể nói chúng. Nhưng chính chúng
ta là một thực
thể và chắc
chắn sẽ không bao giờ vượt
qua giới
hạn đó. Mọi sự xuất
hiện chung quanh ta sẽ được tri
thức bóp
méo đi để biến
thành tác
dụng, và chính chúng
ta cũng chỉ là một thực
thể chỉ được xuất
hiện trước cái dụng đó. Vì thế, khi tri
thức của ta đang bị đóng khung vào cái dụng của thực
thể, thì thực
thể của chính chúng
ta và tất cả những thực
thể xung
quanh đều bị đẩy ra trình
diện trên lớp hiện
sinh.
Đối với tri
thức, tác
dụng của một thực
thể là vận mạng quyết
định của thực
thể đó. Thượng
đế là một thực
thể với vai
trò sáng
tạo nằm trên chót và ở ngoài thực
thể đang nghĩ về nó, Thượng
đế ấy chính là ảo
giác của nhận
thức trên đoạn đường mới của những thực
thể xuất
hiện dưới khía cạnh dụng của nó, trên bình diện hiện
sinh. Chính vì lý
do đó mà thượng
đế, đã đóng vai
trò quyết
định cho vận mạng của tư
tưởng loài
người.
Trên mặt phẳng hiện
sinh không có một thực
thể duy
nhất mà có nhiều thực
thể xuất
hiện cùng
lúc. Chúng nằm cạnh nhau; bởi vì chúng nằm cạnh nhau cho nên tri
thức với tính
chất phạm
trù đã chịu
khó phân chúng ra từng loại. Quả vậy, với chúng
ta, không có một vật nằm riêng rẽ nào, mà luôn luôn là vật này
nằm cạnh vật kia. Tri
thức đặt lên một sự vật nào thì những sự vật khác cũng đồng
thời đeo theo trong một chuỗi dài của sự vật đi qua nhận
thức. Nhận
thức đó luôn luôn bị đeo níu, chắc
chắn là vậy. Bị đeo níu là vì sự vật qua nó bằng tính
chất đối
lập và mâu
thuẫn. Bất cứ ở bình diện nào, hiện
sinh hay không hiện
sinh, và dù có nằm trong tính
chất lưỡng phân tri
thức lúc nào cũng tương quan với thực
tại. Vì thế mà mâu
thuẫn và đối
lập trở
thành đặc
tính căn
bản của tri
thức. Cố nhiên là tri
thức với những lớp vô
minh dày đặc.
Tính chất đối
lập và mâu
thuẫn của tri
thức đó tạo cho thực
thể có một vận mạng được giới
hạn bởi những hai đầu sinh-diệt, đoạn
thường, khứ-lai, và nhất-dị.
Hiện sinh và ý
nghĩa sống còn của một thực
thể. Sống còn trong tri
thức. Sự sống và những vấn
đề chung quanh sự sống là môi trường cho mọi thứ xung động hiện
khởi. Trong quá trình sinh
thành của một thực
thể, đặt trên những luận tắc của lý
trí, quá trình ấy là biện
chứng sinh
thành và hủy diệt. Cho nên, sự sống của một kẻ này phải là sự
chết của một kẻ khác. Trên đại
đồng, cố nhiên sự hủy diệt của một quốc
gia này chính là sự sinh
thành của một quốc
gia khác. Sự xung động ấy do bàn tay của tri
thức mó vào.
Như vậy, biểu
thị của dụng như là sự kết
hợp giữa hai thực
thể xung động tạo sinh
thành hủy diệt. Thực
thể sẽ thay đổi biểu
thị của nó trên mặt phẳng xuất
hiện cho tri
thức. Đó là những tướng của thực
thể.
Yêu cầu sinh
tồn của một thực
thể lập cước trên hiện
sinh của dụng, và những xung động tất yếu của thực
thể để làm nên sự sinh
tồn đó lập cước trên hiện
hữu của tướng.
“Pháp nhĩ như thị” là thực-tại-như-là-thực-tại của thể. Thể
không đóng kín. Nhưng những biểu
thị của thể qua hiện
hữu của tướng luôn luôn bị tri
thức với những phạm
trù lý
trí loạt biệt, để tạo nên thế sinh
tồn cho thực
thể qua hiện
sinh của dụng. Khi mà thể xuất
hiện trong tri
thức qua hiện
hữu của tướng thì thể đó không còn là thực
thể với chính nó mà là những thực
thể liên
kết. Thực
thể này nằm cạnh thực
thể kia, như ly nước ở trên bàn, bàn ở trong phòng, phòng ở trong
nhà, nhà ở trong thế
giới. Thực
thể liên
kết thành một chuổi dài để xuất
hiện trong tri
thức. Tri
thức đó luôn luôn có những cái nhìn bị đeo níu trùng
trùng vô
tận. Nhưng nếu các thực
thể liên
kết trùng
trùng vô
tận đó không được tri
thức uốn
nắn để sắp
đặt trên một trình tự diễn biến, tri
thức sẽ trở
thành vô
dụng. Cho nên, phạm
trù lý
trí là đặc
tính căn
bản của tri
thức.
Phương pháp của Phật
giáo A-tì-đàm là phương
pháp phân tích. Họ có lý để nói rằng các pháp
như một đám hoa hỗn
độn, xấu có tốt có, thiện
ác chỉ cách
biệt trong đường tơ kẽ tóc, nếu
không có sự trạch diệp thì tri
thức sẽ không được hướng dẫn đứng
đắn trên đường gạn
lọc vô
minh.
Yêu sách phân tích đó cũng nằm trong phạm
trù lý
trí. Quá trình
diễn biến của một thực
thể đặt trên đoạn đường nhân
duyên quả. Quá trình đó làm khơi dậy ý
niệm về thời
gian. Và chính ý
niệm thời
gian cho ta khái niệm về tính
chất vận
hành của thực
thể. Nhưng vận
hành này chỉ được biểu hiện qua mặt hiện
sinh của dụng của một thực
thể. “A-tỳ-đạt-ma” nói với pháp khi có tác
dụng thì sinh, khi hết tác
dụng thì diệt. Sinh
diệt là dấu hiệu của vận
hành.
Tuy nhiên vấn
đề là phải đi sâu vào gốc rễ, đi
vào trong tận cùng thực
thể. Đắc
thế thì sinh thất thế thời diệt, như luận Tỳ-bà-sa đã nói, chỉ
cho ta nhìn được thực
thể bị méo mó thì tùy
theo cấp độ méo mó của tri
thức. Nhưng ta đã nói ý
hướng triết lý của Trung
quán nhắm tới tri
thức như là thực
tại và thực
tại như là thực
tại, thì vấn
đề thanh trừng những giai tầng ảo
hóa của thực
tại, cho thực
thể xuất
hiện với yếu tính của nó như là nó.
Tri thức và thực
tại luôn luôn song hành, kể từ khởi điểm gạn
lọc cho
đến chót đường gạn
lọc. Vì thế, yếu tính của thực
thể không phải tự nó trình bày, nhưng là do tri
thức trình bày. Với điều đó, ta thấy phương
pháp “biến thiên
thực thể” trong hiện
tượng học của Husserl không đẩy được thực
thể ra trình
diện trước ánh sáng. Sự biến
thiên ấy chỉ nhắm được biểu
thị hiện
hữu tướng của thực
thể. Như vậy, yếu tính tối
hậu, được xem
như là yếu tính của thực
thể do phương
pháp biến
thiên ấy, chỉ là hiện
sinh dụng của thực
thể do tri
thức liên
kết những tướng biểu
thị của thực
thể mà có. Vậy
thì cuối
cùng thực
thể vẫn bị chôn chân dưới lớp dày huyển hóa.
Khám phá ra thể của thực
thể không phải là vấn
đề không quan trọng. Nó định rõ được hướng đi của tri
thức.
Vấn đề liên
quan đến yếu tính của thực
thể. Qua những trình bày trên, ta thấy rằng yếu tính ấy không
phải được xác định bằng những tác
động của một thực
thể. Như ta đã biết, tác
động của một thực
thể là do sự xung động về những tướng của các thực
thể, không phải thể của thực
thể nầy xung động với thể của thực
thể kia, mà do tri
thức đặt tướng của thực
thể này cạnh tướng của thực
thể kia, để làm xuất
hiện những tác
động của khía cạnh dụng của thực
thể trên bình diện hiện
sinh, theo định
luật biện
chứng của mâu
thuẫn và đối
lập.
Bỏ đi khía cạnh dụng của thực
thể, thì các tướng của thực
thể được tri
thức liên
kết lại sẽ thiếu mất hợp đề, thành ra các tướng ấy bị đặt trong tình
trạng phao khí (déréclition), và cũng từ đó mọi ý
nghĩa hiện
hữu của một thực
thể lẫn tránh đi đâu để cho hiện
sinh của chúng tan ra từng mảnh.
Ý nghĩa vận
hành của thực
thể được dự
kiến như là yếu tính của thực
thể. Khi chúng
ta gạt bỏ đi khía cạnh dụng của thực
thể thì các tướng thiếu sự liên
kết hợp đề, nhưng với tri
thức, chúng vẫn xuất
hiện và vẫn
có tác
động, nhưng không có tác
dụng, cho nên chúng
hiện hữu một cách trơ
trọi, lầm lỳ hay có vẻ ngang
bướng. Vả lại nhân
duyên quả như luật tắc cố định cho nhận
thức, cho nên, mặc dù không có tác
dụng nhưng có tác
động của các tướng, thì thực
thể vẫn như bị trôi trong những phạm
trù sinh-diệt, đoạn-thường, và đó là ý
nghĩa vận
hành của một thực
thể trên những giai tầng huyễn
hóa.
Luật nhân
duyên quả của nhận
thức xác định các chiều không
gian và thời
gian của thực
thể. Không phải chỉ với thời
gian mà đủ làm ý
nghĩa vận
hành của một thực
thể; song song với nó là cả không
gian.
Không có không
gian của một thực
thể, nhưng của nhiều thực
thể. Mỗi thực
thể, cố nhiên là ta chỉ giới
hạn được nhận
thức về tướng mà thôi, được biểu
thị với một trường độ nào đó. Chính trương độ ấy đặt một thực
thể này giao tiếp với những thực
thể khác theo ba chiều của một thực
thể quanh nó. Sự giao tiếp ấy là những tác
động của thực
thể. Tác
động không cần biết có dẫn đến tác
dụng hay không nhưng vẫn tạo ra khái niệm về ý
nghĩa vận
hành của thực
thể.
Tri thức có thể nhận
ra thực
thể này nằm cạnh thực
thể kia trong tình
trạng phao khí. Nhận
thức này có thể tạo ra ảo
giác cho tri
thức rằng: sự vật như thế là như thế. Tuy
nhiên, không phải gạt bỏ tác
dụng của thực
thể thì bản
thân của thực
thể xuất
hiện. Bởi vì tri
thức dự
tính rằng sự vật nó như thế là như thế, nên khi thực
thể bị rơi mất tác
dụng thì tướng của nó trở
thành rời rạc, có vẻ rằng nó như thế là như thế. Tác
dụng của một thực
thể là quyết
định vận mạng của một thực
thể, nhưng không xác định được yếu tính của một thực
thể. Ý
nghĩa vận
hành của thực
thể cũng chỉ là dự
kiến của tri
thức. Vì khi tri
thức biết rằng nhận
thức luôn luôn đeo níu bởi những trường giang đại
hải sự vật, nó được yêu
cầu phải làm thế nào nhìn thẳng vào sự vật nó như là nó. Bởi
vậy, thực
thể luôn luôn ở trong trạng
thái sẽ trở
thành. Sẽ trở
thành tức là thực
thể đang vận
hành. Cố nhiên với ý
nghĩa vận
hành này, ta thấy yếu tính của một thực
thể được xác định bởi những tác
động và tác
dụng của chúng. Và với chúng
ta, thực
thể vẫn còn nằm trong tận cùng bí
ẩn.
Chúng ta thấy rằng vì yêu
cầu liên
kết những tướng của thực
thể cho nhận
thức nên thực
thể luôn xuất
hiện dưới tri
thức trong trương độ của nó. Vì
vậy người ta nói rằng không có không
gian thì không thấy thực
thể cho nên không
gian như là yếu tính thực
thể. Tuy
nhiên, với chúng
ta, đấy không phải là chính bản
thân của thực
thể mà chỉ là những tướng của thực
thể mà thôi.
Nhận thức về ý
nghĩa vận
hành của thực
thể, chúng
ta cũng chỉ nhận
ra ý
nghĩa đó qua trình
diện hiện
hữu tướng của thực
thể mà thôi.
Tri thức mà từ chối không tiếp
đón những tác
dụng của thực
thể thì chỉ có kéo lôi con
người vào một hoang mang hổn loạn đối với ý
nghĩa hiện
hữu của chính mình. Nhưng nếu nó từ chối luôn không tiếp
nhận có những tác
động của thực
thể, bấy giờ không
gian sẽ băng hoại và thời
gian sẽ gãy
đổ, con
người sẽ tự thấy đứng trước một vũ
trụ hư
vô bao
la dày đặc. Ý
nghĩa của cuộc sống hiện
ra với con
người bằng những kinh mang tột độ. Người ta sẽ ôm cái bí
ẩn ấy trọn
đời vào chết trong cái bí
ẩn kinh mang tột độ ấy. Mọi xác định về yếu tính xem
như là yếu tính đích thực của thực
tại, với chúng
ta, chỉ là những dự
kiến, không hơn không kém.
Những quảng đường của không
gian bị gẫy đổ là do yêu
cầu của tri
thức về nhận
thức ra bản
thân của mình thực
thể và yếu tính của thực
thể xuất
hiện trong tri
thức phạm
trù là những đối
lập và mâu
thuẫn tuyệt
vời của nhận
thức. Đấy là những kinh mang tột độ. Người ta bị đối chọi giữa
hai ý
niệm, một là những yêu
cầu đóng khung trong phạm
trù lý
trí, với không
gian và thời
gian và một nữa, là chối bỏ mọi bình diện của thực
thể để cho yêu
cầu thực
thể như là nó. Ở đây, chính bởi tri
thức và thực
tại song lập. Thực
tại xuất
hiện lầm lì tự nó, và tri
thức cũng muốn để tự thực
tại vận
hành với yếu tính của nó; nhưng tri
thức vẫn để lên thực
tại với những phạm
trù lý
trí. Chúng
ta phải đợi khi nào tri
thức như là thực
tại và thực
tại như là thực
tại. Tất cả vấn
đề của chúng
ta là ở đó.
Ý niệm thời
gian và không
gian đối với một thực
thể chỉ xuất
hiện trên bình diện hiện
sinh bằng những tác
dụng của thực
thể. Thực
thể là có tác
động, nhưng nếu
không có tác
dụng thì thực
thể ấy dù có vận
hành nhưng không vận
hành trong không
gian và thời
gian. Giản lược được không
gian và thời
gian trong nhận
thức đối với thực
thể chưa phải là khám
phá ra thực
thể toàn bích và toàn
diện. Tư
tưởng chúng
ta phần lớn bị chặn đứng ở giai tầng hiện
tướng của thực
thể và cho rằng đó chính là thực
tại, hay thực
thể toàn bích và toàn
diện. Do theo đây mà chúng
ta có thể đánh
giá cấp độ tàn phế của trí
thức qua các giai tầng huyển hóa của thực
tại, và cố nhiên ở đó cũng xác định luôn trình
độ tư
tưởng.
Luôn luôn chúng
ta bắt đầu mọi hiểu
biết nằm trong phạm
vi ý
nghĩa tác
dụng của thực
thể. Hiểu
biết của chúng
ta bao giờ cũng nhắm đến kết quả trước. Kết quả ấy tự hình thành
một cách mặc
nhiên và xãy ra đúng quy
tắc của lý
trí đặt ra. Trong khi tìm
hiểu vấn
đề, tìm
hiểu đó ít có giá
trị khám
phá ra thực
thể toàn bích và toàn
diện, nhưng ta chỉ tìm
thấy những xung động phát xuất do sự giao tiếp của tướng của các thực
thể. Xung động ấy sẽ được hướng dẫn đúng
đắn theo luật tắc nhân
duyên quả của tri
thức, nhắm vào tiêu điểm kết quả đã đượng dụng lên từ trước. Vậy
thì, mọi khám
phá, nếu
không phải đào lấp được đến tận cùng ý
nghĩa của thực
thể, những khám
phá ấy chỉ có nghĩa là hoàn
thành những gì mà tri
thức dự
tính. Chắc
chắn nó không có nghĩa khám
phá như ta hiểu thông thường là tìm
thấy một điều nào đó xẩy ra ngoài những gì mà tri
thức đã biết. Nhưng chúng
ta cũng có thể hay rằng khám
phá mà không nhìn thấy yếu tính thực
thể của điểm khám
phá, thì những lạ lùng ấy chỉ là những xung động của tướng của
các thực
thể phát ra. Tất nhiên ta hiểu rằng những xung động không nằm
trong luật tắc của tri
thức, chỉ có tác
dụng mới được tri
thức bóp
méo đi. Nhưng tác
động của tướng của thực
thể cũng chịu chung số phận như thế. Tri
thức sẽ biến những xung động ấy thành tác
dụng.
Vận hành của một thực
thể như là biểu
thị của thực
thể đó, bởi vì thực
thể được biểu
thị qua khía cạnh tướng của bình diện hiện
hữu; và nếu mà ta gở bỏ được những khung thời
gian và không
gian đóng trong nhận
thức, thì chúng
ta vẫn chỉ có thể
không chấp
nhận tác
dụng của thực
thể. Đời
sống quên cả không
gian quên cả thời
gian đối với ta quả thực là đời
sống quá ư vĩ đại và chúng
ta khó khăn lắm, nếu
không phải là chịu
đựng thử
thách phi
thường thì khó mà thực
hiện; nhưng chúng
ta lại biết rằng như thế chỉ mới nhìn vào tác
động đơn
thuần của một thực
thể, mà chưa khám
phá ra ý
nghĩa của thực
thể. Nói
vắn tắt, nếu ta gọi tùy
theo cấp độ của tri
thức mà thực
thể xuất
hiện dưới ba tầng thể, tướng và dụng, thì tư
tưởng của chúng
ta mới chỉ dừng lại ở tướng. Thể vẫn bị che
lấp sau bức tường vọng
kiến của tri
thức. Ý
nghĩa của thể ấy như thế nào, chúng
ta chỉ có thể dự
kiến nhưng dự
kiến ấy như một trường thành bao giờ cũng cản chân
không cho ta bước vào trong tận cùng thực
thể. Rút
lại chỉ còn vấn
đề phương
pháp mà thôi. Phương
pháp ấy xác định hướng đi của tri
thức, nó không dự
kiến thế nào về thực
thể. Và đó chính là điểm độc đáo nhất của Trung
quán.
Tuệ Sỹ
[Tạp
chí Tư Tưởng số 1 – 1967]