Vài nét về văn học Pāli
Văn
học Pāli có giá trị rất lớn trong nền văn học Phật giáo.
Giá trị này chính yếu nằm ở nơi những lời dạy thâm sâu nhưng cũng đầy thiết
thực được lưu giữ trong đó.
Việc nghiên cứu văn học Pāli
là điều cần thiết, qua đó nhằm duy trì mạng mạch Phật pháp,
vì giáo lý là chỗ nương tựa để tu tập,
là bậc thầy cho hàng hậu học.
Như vậy, văn học Pāli
đóng vai trò quan trọng trong
kho tàng văn học
Phật giáo
vì
nó
chứa đựng những tài liệu sớm nhất liên quan đến Bậc Đạo sư,
đời sống
và
những lời dạy của Ngài.
Ngoài
việc hiểu về cuộc đời
Đức
Phật và lời dạy của Ngài,
thông
qua văn học Pāli,
chúng ta còn hiểu được
đời sống
văn hóa, xã hội, tôn giáo
của
Ấn Độ cổ xưa.
Đặc biệt nhất là văn học Pāli
được xem là nguồn văn học sớm nhất của Phật giáo và mang tính lịch sử rất
cao.
Đây là nền tảng cơ bản để tìm hiểu về Phật giáo nói chung và Phật giáo
Thượng tọa bộ nói riêng. Nói
chung, văn học Pāli đóng vai trò rất
quan trọng ở những nước theo Phật giáo Theravāda
và ảnh hưởng của nó
rất sâu đậm.
Sơ lược về văn học
Pāli
Trước khi tìm hiểu văn học Pāli, chúng ta cần biết Pāli có nghĩa là gì.
Trước hết,
“Pāli là thứ ngôn ngữ ghi chép kinh điển Phật giáo.”[1]
Theo
ngài Buddhaghosa,
Pāli
là dùng để chỉ cho Chánh tạng, tức là những lời dạy của
Đức
Phật (Buddhavacana)
và
của
chư vị Thánh
tăng
thời
Đức
Phật[2].
Theo B.C. Law trong “A History of Pāli Literature”[3],
thuật ngữ “Pāli” là tên viết tắt của một ngôn ngữ, viết đầy đủ là
“Pāli-bhāsa”, trong đó “Pāli” nghĩa là
kinh điển và “bhāsa” nghĩa là ngôn ngữ.
Có nhiều ý kiến cho rằng ngôn ngữ mà Đức Phật sử dụng để thuyết giảng giáo
lý được ghi lại trong Tam tạng văn điển là ngôn ngữ Pāli. Dựa vào truyền
thống, ngài Buddhaghosa cho rằng ngôn ngữ chính của Tam tạng Pāli là ngôn
ngữ của Ma-kiệt-đà (Maghada), “thứ ngôn ngữ mà chính Đức Bổn sư đã sử dụng”.
“Windisch, M. Winternitz.... cũng chủ trương rằng nguồn gốc của Pāli là Ma-kiệt-đà
(Maghada).” Tuy nhiên, W.Geiger cho rằng “ngôn ngữ Pāli phải trải qua bốn
giai đoạn phát triển để trở thành Tam tạng thánh điển. Bốn giai đoạn là:
- Ngôn ngữ văn vần hay kệ.
- Ngôn ngữ văn xuôi.
- Ngôn ngữ sử dụng trong hệ thống tục tạng.
- Ngôn ngữ thơ ca được tạo tác về sau[4].
Theo các nhà ngữ văn hiện đại, “Pāli là ngôn ngữ xưa nhất trong nhóm ngôn
ngữ Ấn-Âu trung đại.”
Như
vậy,
văn
học
Pāli là
chỉ chung cho các tác phẩm
được
viết
thành văn bản
hoặc
được
truyền miệng
bằng ngôn ngữ
Pāli.
Văn học Pāli truyền miệng
là muốn nói đến
Tam tạng
kinh
điển được truyền
miệng
từ thời
Đức
Phật đến thế kỷ I trước Tây lịch;
còn
văn học Pāli văn
bản là
các
kinh sách
được
được lưu truyền dưới dạng văn bản
từ sau thế kỷ I trước Tây lịch.
Sau khi khi
việc
đọc tụng kinh điển đi vào hệ thống,
những lời dạy của
Đức
Phật được phân chia thành những nhóm chủ đề khác nhau như: Kinh, Luật và
Luận.
Về sau, văn học Pāli
còn phát triển thêm
và đã
làm cho nền văn học
này
ngày càng phong phú.
Ngày nay văn
học Pāli gồm có: Chánh tạng (Kinh-Luật-Luận), tạp tạng, chú giải, phụ chú
giải, các sử liệu Pāli, sách giản lục, các tác phẩm thi ca hậu thời, sách
văn phạm Pāli và các tác phẩm về
ngữ
âm học,
tu
từ học,
từ
vựng Pāli.
Kết tập Tam tạng
Theo các tài liệu như Cullavagga,
Dipavamsa,
Mahavamsa
và Samantapasadika,
sau
ba tháng từ
thời điểm Đức
Phật
nhập
Niết-bàn, các đệ tử của Ngài đã nhóm họp để kiết tập kinh điển. Có
500 vị
Tỷ-kheo tham gia kỳ kiết tập này
và
Tôn
giả
Đại Ca Diếp (Mahakassapa)
là
vị
chủ tọa,
còn
vua Ajatasattu (A-xà-thế)
là người bảo
trợ.
Kỳ kiết tập được tổ
chức tại hang Sattapanni (Thất Diệp), bên ngoài thành
Vương Xá. Kỳ kiết tập này chính yếu trùng tụng lại những lời dạy của Đức
Phật.
Việc
trùng tụng
luật
do
Tôn
giả Ưu Bà Ly
đảm trách, còn
việc trùng tụng kinh
do
Tôn
giả A Nan
thực hiện. Sau
đó cả hội chúng kiểm chứng bằng
việc đặt
các câu hỏi.
Một trăm năm
sau
Đức
Phật nhập Niết-bàn,
đại hội
kiết tập
thứ hai
được tổ chức và
ngài
Yasa làm chủ tọa.
Kỳ kiết tập
này có
700 vị Thánh
tăng
tham dự,
được tổ chức
tại thành Tỳ-xá-ly,
và
được vua Kalasoka tài
trợ.
Sau kỳ
đại hội này,
Phật giáo chia làm hai bộ phái
là
Thượng tọa bộ và Đại
chúng
Bộ.
Kỳ kiết
tập thứ ba diễn ra khoảng 218 năm sau
Đức
Phật nhập diệt, do Trưởng
lão
Moggaliputta Tissa làm chủ tọa,
và
có 10.000
vị Tăng tham dự.
Kỳ kiết tập này được tổ chức
ở
Hoa Thị Thành (Pataliputta),
do
vua Asoka
bảo
trợ. Kết quả của kỳ đại hội này là Tam tạng được hình thành.
Sau ba kỳ kiết tập, Phật pháp được truyền sang Tích Lan và được biên chép
thành văn bản
trên lá bối
vào cuối thế kỷ I trước Tây lịch
ở kỳ kiết
tập thứ tư. Theo M.Winternitz: “Chánh
tạng kinh được sưu tập trong thời kỳ kết tập lần thứ ba do Mahinda mang đến
Tích Lan và được ghi chép dưới thời vua Vattagāmani là khớp với Tam tạng
Pāli mà hiện chúng ta đang có.”[5]
Sau đó,
tạng thư Pāli
dần được phát triển,
mở rộng bởi sự góp sức của các luận sư,
các nhà sớ giải Pāli.
Do
tầm quan trọng của
Tam tạng
Pāli
nên công tác nghiên cứu và chú giải về các vấn đề Phật học được lưu giữ
trong đó ngày
càng được
chú ý đến.
Bên cạnh đó cũng có những sáng tác, công trình ngữ pháp góp phần làm sáng tỏ
ngôn ngữ Pāli. Tuy nhiên, sự xâm lăng
của những
người Tamil
đã khiến cho các sinh hoạt của Phật giáo ở Tích Lan bị đe dọa,
và chính trong hoàn cảnh này mà Tam tạng Phật giáo được chép thành văn bản,
với mục đích duy trì Chánh pháp của Bậc Đạo
sư
ở một thể dạng bảo đảm hơn.
Và
“Sự
kiện giáo lý của Đức Phật chép ra thành văn bản đã đánh dấu một bước phát
triển mới của Tăng-già Tích lan và cũng mở đường cho các hoạt động văn học ở
đây.”[6]
Tầm
quan trọng của văn học Pāli
Tam tạng kinh điển bằng tiếng Pāli
quan trọng đối với chúng ta bởi vì:
Thứ nhất, đó là một bộ sưu tập đầy đủ thuộc về một tông phái. Mặc dù chúng
ta có thể tìm thấy những dấu hiệu rõ ràng về sự phát triển lịch sử giữa các
phần khác nhau của tạng
kinh,
thì những kinh văn trong Tam tạng Pāli lại
tương đối đồng nhất. Tính đồng nhất này thể hiện rõ trong bốn bộ Nikāya và
những phần xưa
nhất
của bộ thứ năm (Tiểu
bộ).
Thứ hai, “toàn bộ văn tạng Pāli được bảo tồn bởi thứ ngôn ngữ miền Trung
Ấn- Aryan, thứ ngôn ngữ rất gần với ngôn ngữ mà
Đức
Phật đã nói. Chúng ta gọi thứ ngôn ngữ này là tiếng Pāli”[7].
Như vậy,
ngôn ngữ này phản ánh thế giới tư tưởng mà
Đức
Phật kế thừa từ nền văn hóa Ấn Độ rộng lớn, nơi Ngài sinh ra nhờ vậy ngôn từ
của nền văn hóa ấy được diễn đạt tinh tế, chân thật không pha tạp
bởi
bất kỳ sự ảnh hưởng ngoại lai. Điều này
phần nào khác
với các bản dịch kinh
ở những ngôn ngữ khác,
ở
đó ngôn từ dịch
ít nhiều
chịu
ảnh hưởng
những yếu tố ngoại lai.
Thứ
ba,
đây là
tài liệu có thẩm quyền và đang được Tăng Ni các nước Phật giáo
Nam tông như Tích Lan,
Miến Điện,
Thái Lan,
Campuchia
dùng làm cơ sở chính cho việc tìm hiểu lời dạy của Đức Phật.
Văn học Pāli
cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin quan trọng về thể chế nhà nước,
đời sống văn hóa, xã hội, tôn giáo và
chính trị vào thời Đức Phật.
Như vậy, văn học
Pāli
đóng vai trò quan trọng đối với việc nghiên cứu tư tưởng lịch sử Phật giáo
Ấn Độ.
Như vậy, văn học
Pāli
là nguồn
văn học Phật giáo
vô cùng quan trọng.
Điều này được thể hiện rõ qua một số nhận xét của các nhà nghiên cứu khi
nhận định về văn học Pāli:
“Văn
học Veda dẫn chúng ta vào các thời đại cổ xưa thời tiền sử,
chỉ với văn học Phật giáo chúng ta mới thật sự đặt chân vào thời đại sáng
sủa của lịch sử.
Và chúng ta thấy rằng trong chừng mực nào đó màn đêm của các tài liệu Veda
và sử thi Ấn Độ bị đẩy lùi bởi ánh sáng này.”[8]
Hay
nhà nghiên cứu
H.
Oldenberg cũng
rất tin tưởng nguồn văn học Pāli.
Ông
nhận xét
rằng:
“Pāli
là nguồn tài liệu đáng chú ý và được xem trọng hơn bất kỳ nguồn tài liệu nào
khác, nếu chúng ta muốn có được bất kỳ thông tin nào về Đức Phật và cuộc đời
của Ngài.”[9]
Còn B.C.Law[10]
cho rằng nguồn tài
liệu văn học
Pāli
rất đa dạng và phong phú, có thể giúp ích rất lớn cho công tác nghiên cứu có
hệ thống về lịch sử Ấn Độ cổ đại.
Những lời dạy của Đức Phật có tầm quan trọng rất đối với người đệ tử Phật.
Hiểu được
điều đó,
chư
Thánh
đệ tử đã
nỗ lực sắp xếp một cách có hệ thống những lời dạy của Ngài
qua các lần kết tập kinh điển.
Sau
một thời gian dài truyền khẩu tại Ấn Độ
và được truyền sang Tích Lan,
Tam tạng Pāli
được ghi chép lần đầu tiên trên lá bối.
Tam
tạng này được lưu giữ nguyên vẹn tại
“Đảo
quốc
Chánh
pháp”.
Thái độ tôn trọng
Chánh
pháp của các Tăng sĩ Tích Lan cộng thêm
vị trí địa lý
của xứ sở này đã
giúp cho
toàn bộ giáo pháp của
Đức
Phật hầu như được gìn giữ nguyên vẹn
và
không bị pha trộn.
Chính
vì thế mà ngày nay chúng ta có được nhiều tài liệu về Phật giáo Ấn Độ sơ
khởi không mang sắc thái bản địa hóa Tích Lan.
Về sau,
Tam tạng Pāli lần lượt được
truyền
sang các nước Đông Nam Á,
và tại
Miến Điện, chư Tăng đã tổ chức hai kỳ kiết tập
để trùng tụng lại
Tam
tạng Pāli.
Tại những kỳ kiết tập này, Tam tạng
được khắc trên 729 phiến đá tại Kuthodaw,
và cũng được
in thành sách bằng các ngôn ngữ Pāli, tiếng Myanmar,
và
tiếng Anh.
Phật
giáo tại Ấn Độ đã trải qua nhiều thăng trầm, nhưng
giáo pháp của
Bậc
Đạo sư
vẫn luôn được giữ gìn và truyền thừa
từ thế hệ này sang thế hệ khác,
từ quốc độ này đến quốc độ khác, và ở nhiều nơi, Tam tạng Pāli đã trở thành
di sản vô giá và là nền tảng trên đó người dân xây dựng đời sống.
Ở Miến Điện
cũng như ở Tích Lan ngày nay,
các cuộc thi tụng và viết về Tam tạng vẫn được diễn ra,
và văn học Pāli là nguồn văn học được coi trọng nhất ở những quốc gia này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Châu, Thích Minh (dịch). Kinh Tăng
chi
bộ
- Tập I.
Hà Nội: NXB.Tôn
Giáo, 2018.
2.
Châu,
Thích Minh
(dịch).
Kinh Tương ưng bộ - Tập I.
Hà Nội: NXB.Tôn
Giáo, 2013.
3.
Tỷ-kheo
Nguyên
Giác (dịch). Giới thiệu
văn
học
kinh
điển Pāli.
HCM: NXB.Phương
Đông, 2011.
4.
Trần Như
Mai
(dịch), Hợp tuyển lời Phật dạy từ kinh tạng Pāli. Hà Nội: NXB.Hồng
Đức, 2019.
5.
Thích
Minh
Tâm. Khảo cứu về văn học Pāli. HCM: NXB.Phương
Đông, 2006.
6.
Thích Viên
Trí.
Ấn Độ Phật giáo sử luận. HCM: NXB.Phương
Đông, 2009.
7.
Thích Thanh
Kiểm.
Lược
sử
Phật
giáo
Ấn Độ.
Hà Nội: NXB.Tôn
Giáo, 2014.
8.
Law, B. C. A History of Pāli Literrature. Delhi: Indological
Book House, 1993.
9.
Winternitz, Maurice. History of Indian Literature,
vol.
II.
Deli: Motilal Banarridass Publishers Pvt. Ltd, 1993.
10.
Oldenberg.
H. Buddha: His life, His doctrine, His order. Delhi: Motilal
Banarridass Publishers Private Limited, 1997.
11.
Wikipedia,
Bách khoa toàn thư mở. Văn học. Truy cập: 2:58 ngày 13/11/2020.
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%E1%BB%8Dc