Những đóng góp của Thiền sư Tiên Giác - Hải Tịnh đối với Phật giáo Nam Bộ
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA THIỀN SƯ TIÊN
NHỮNG ĐÓNG GÓP
CỦA THIỀN
SƯ TIÊN GIÁC - HẢI TỊNH
ĐỐI VỚI
PHẬT GIÁO NAM BỘ
Thiền
sư Tiên Giác - Hải Tịnh là một vị Tăng cang tại kinh đô
Phú Xuân (Huế). Sau thời gian làm Tăng cang ở đó, ngài trở về Nam Bộ tiếp tục sứ
mệnh truyền bá Chánh pháp và phát triển Phật giáo. Nhận thấy rằng đời sống của
hàng Tăng sĩ tại Nam Bộ phần lớn thiên về cúng tế hơn là giảng kinh thuyết pháp,
và nhằm ổn định đời sống Tăng sĩ theo tinh thần giới luật để tiếp nối duy trì
mạng mạch Phật pháp, ngài đã nỗ lực thực hiện một số việc làm để chấn hưng Phật
giáo ở vùng đất này. Một số việc làm của ngài có thể kể đến là:
phát triển cơ sở tự
viện, trùng tu chùa
chiền, khai
mở trường Hương,
trường Kỳ...
Xây dựng và
trùng tu chùa chiền
Buổi đầu ở vùng đất
mới,
các vị thiền sư truyền đạo
thường dùng
cây lá dựng am tranh nhỏ để thờ tự và cư trú. Trải qua thời gian,
các Phật tử
đã đóng góp kiến lập chùa
chiền
nhằm phục vụ cho
nhu cầu tu học của Tăng
sĩ, cho tín ngưỡng tâm linh
và
cho việc thờ phụng
lễ bái của họ.
Tiếp nối các bậc tiền nhân đi trước,
vào những năm giữa thế kỷ XIX, Thiền sư Tiên Giác - Hải Tịnh cùng với
các
Phật tử đã kiến tạo
nhiều ngôi chùa ở Nam Bộ,
góp phần phát triển Phật giáo.
Đầu
tiên ngài
kiến tạo chùa Linh Nguyên (Đức
Hòa
- Long An), chùa Tân Hưng (Bình Dương) và tu sửa Quan Âm
viện
thành chùa Giác Viên (TP.HCM),
sau đó
ngài “bước đầu mở đạo vùng Châu Đốc…
dựng chùa
Mai Sơn, Nhà Bàn, huyện Tịnh Biên (An Giang). Rồi tiếp giáo
hóa
chùa Hòa
Thạnh, Nhà Bàn, huyện Tịnh Biên (An Giang)”.
Vào
năm 1851, ngài
trùng tu
chùa Phú Thạnh, chùa Vĩnh Thông ở An Giang,
sau đó đến
Hà Tiên lập chùa Giang Thành, Viên Thành (riêng 2 chùa ở Hà Tiên hiện nay không
còn tư liệu ghi chép về
ngài).
Những
ngôi chùa ở vùng đất An Giang và Hà Tiên nằm sát địa phận biên giới Việt Nam -
Campuchia, nơi đời sống người dân còn rất nhiều khó khăn.
Với tầm nhìn sâu
rộng của một vị từng làm Tăng cang ở kinh đô,
ngài biết rằng
muốn giữ gìn mạng
mạch Phật giáo thì trước tiên cần phải tiếp
Tăng
độ chúng, kiến lập tùng lâm, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt của
chư Tăng
và tín đồ Phật tử. Kiến
tạo tùng lâm là thiết
lập cơ sở để
phát triển Phật giáo,
trước tiên
là để có nơi
tiếp độ người xuất gia,
và về sau
những người xuất gia này
sẽ
đảm trách việc hướng dẫn
người dân
tu học
Phật pháp.
Việc kiến tạo, xây
mới một ngôi chùa không chỉ giúp hướng dẫn người xuất gia tu tập mà còn
đem lại
nhiều giá trị thiết
thực cho Phật tử, như
tác giả Nguyễn Đăng Duy nhận định:
“Niềm tin mở rộng
trong toàn thể dân ta không xuất gia tu hành, nhưng vẫn lên chùa lễ Phật, cầu
bình yên mạnh khoẻ khi sống, cầu siêu linh tịnh độ khi chết. Đồng thời niềm tin
Phật giáo đã in hằn lên thói quen, nếp sống trong dân ta”.
Như vậy,
một ngôi chùa là điểm tựa tinh thần và là nơi gửi gắm tâm tư nguyện vọng của
người dân ở địa phương
vào
chư Phật, Bồ-tát. Họ đặt niềm tin vào các Ngài,
mong muốn được che chở
để
vượt qua mọi khó
khăn, để có được
niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống. Đồng thời, ngôi
chùa cũng là nơi di dưỡng tâm hồn
người
Phật tử,
qua đó giúp
cho họ
tìm được sự thanh
thản,
thoát khỏi
những buồn phiền, khó khăn mệt nhọc trong sinh hoạt hàng ngày, tạo cảm giác như
được trở về với thế giới an lành. Do
đó,
“Ở
đâu có đất mới được mở ra là ở đó có chùa mới dựng. Tiếng chuông chùa và tiếng
tụng kinh chẳng khác gì lời ru êm ái đối với cả một xã hội lầm lũi.”
Và
“Chùa
không chỉ là nơi các nhà sư tu hành, các tín đồ Phật giáo tới làm lễ mà còn là
nơi hội tụ tín ngưỡng và sinh hoạt tinh thần ở làng quê”.
Như vậy, việc
kiến tạo một
ngôi chùa là
góp phần duy trì
mạng mạch và phát triển Phật giáo,
đồng thời
đáp ứng nhu cầu tâm linh
của
quần chúng một cách thiết thực và đầy ý nghĩa.
Khai mở
trường
Hương
Trường
Hương,
nay gọi là trường Hạ
(an cư kiết hạ). Phật Quang đại từ điển giải thích
an cư là:
“Dịch ý là vũ kỳ (thời kỳ mưa). Là một trong các chế độ tu hành. Còn gọi là
Hạ an cư, Vũ an cư, Tọa hạ, Hạ tọa, Kết hạ, Tọa lạp, Nhất hạ cửu tuần, Cửu tuần
cấm túc, Kết chế an cư, Kết chế”.
Tại Ấn
Độ,
“Mưa
kéo dài đến 3 tháng, nếu ra ngoài sợ giẫm chết côn trùng và mầm chồi cỏ cây mới
mọc trên mặt đất khiến cho người đời cười chê,
nên trong khoảng thời gian 3 tháng này, người xuất gia không được đi ra ngoài mà
phải ở chung lại một chỗ để gắng sức tu hành, gọi là an cư”.
Như vậy, Đức Phật
chế định pháp an cư để
chư Tăng
cùng
tập trung tại một
chỗ để tu học trong
thanh tịnh hòa hợp.
Tuy mỗi quốc gia có điều kiện khí hậu khác nhau nhưng
chư Tăng
vẫn giữ được truyền
thống an cư trong ba tháng trên tinh thần lục
hòa.
Tại Nam Bộ, an cư có tên gọi khác là
trường
Hương.
Theo tác giả
Trần Hồng Liên: “Trường Hương còn dùng để phân biệt với an cư kiết hạ ở quy
mô tổ chức lớn, tập hợp nhiều
Tăng
sĩ các chùa, mang tính chất tu học, đào tạo
Tăng
tài, và theo đúng giới luật”.
Về việc khai mở
trường
Hương
ở Nam Bộ, đầu tiên phải kể đến sự đóng góp của Thiền sư Tiên Giác - Hải Tịnh.
Vào năm
1844, khi
từ kinh đô trở về
Sắc tứ Từ Ân tự,
“Thiền sư đã đứng ra thành lập trường
Hương
đầu tiên tại chùa Giác Lâm”.
Ở
trường Hương
này, ngài
đã thỉnh Thiền sư Phổ Nguyệt chùa Huệ Lâm làm thiền chủ,
Thiền sư Từ Tạng chùa Trúc Lâm làm Yết-ma. Tác phẩm Ngũ
gia
tông phái ký toàn tập
có ghi lại như sau: “Vào năm Giáp Thìn, ngày 20 tháng 7, Hòa
thượng bèn tuyên dương
Chánh
pháp, tiếp dẫn người sau, hộ trì Phật pháp. Hòa
thượng thiết lập trường
Hương,
Tăng
chúng ba tháng an cư, tham thiền nghe pháp”.
Có thể nói đây cũng là trường
Hương
đầu tiên ở Nam Bộ được tổ chức có quy mô lớn.
Theo nhận
định của tác giả Trần Hồng Liên: “An cư kiết hạ đầu tiên ở Nam bộ được tổ
chức tại Gia Định với trung tâm Phật giáo nổi tiếng thời bấy giờ là chùa Giác
Lâm vào năm 1844 đời vua Thiệu Trị, do
Tổ
Hải Tịnh mở”.
Như vậy, Tổ Hải Tịnh rất quan
tâm đến vấn
đề tu tập của hàng Tăng
sĩ,
cũng như quan tâm đến
việc gìn giữ
giềng mối Chánh
pháp. Cho nên sau khi nhận uỷ thác của Thiền sư Tiên Tín - Chánh Trực,
trụ trì Sắc tứ Từ Ân tự,
ngài
đã khai mở trường Hương
để quy tụ chư Tăng
các chùa về tham dự, mục
đích nhằm chấn chỉnh đời sống
Tăng
sĩ lúc bấy giờ. Trong bài Sách tấn
Tăng
chúng các chùa tu tập thiền đường chỉ tịnh,
ngài
dạy: “Người xuất gia học đạo ‘5 hạ đầu phải tinh chuyên trau giồi giới luật;
5 hạ sau mới được phép nghe giáo tham thiền’. Đó là
Tăng
lạp từ mùng 8 tháng 4 phải an cư kiết hạ, chuyên tu Tịnh độ, niệm Phật tham
thiền, thân tâm phải dừng lo nghĩ, dứt bỏ tạp niệm và xa lìa các duyên, các việc
ngoài”.
Ba tháng an cư chính là thời gian giúp cho hành giả tu tập để thu nạp lại năng
lượng đã tiêu hao trong 9 tháng đi phụng sự nhân sinh. Do đó, an cư không chỉ là
trách nhiệm mà còn là bổn phận của một vị
Tăng
đang thực hiện lý tưởng giác ngộ giải thoát.
Trường
Hương
không chỉ dành cho
việc hành trì
tu tập mà còn là nơi giảng dạy kinh luật cho
Tăng
sĩ. Ở đó
tất cả đều phải tham gia những lớp học về nội điển và oai nghi phép tắc, được
những vị am hiểu chuyên sâu giảng dạy. Việc học áp dụng cho tất cả
các
thành viên tham dự trong trường
Hương,
không phân biệt lớn hay nhỏ.
“Dù
là Hòa thượng nhưng
khi tới
trường Hương
thì cũng phải học như bao nhiêu người khác. Có nghĩa là tất cả đều phải học để
ôn lại, từ giáo lý căn băn là
giới,
định,
tuệ.”
(biên
bản phỏng vấn số 03).
Để giúp cho đạo
tràng được trang nghiêm thanh tịnh, trường
Hương
đã đặt ra
nhiều luật lệ
và nội quy:
“Trong trường hương cũng hạn chế đi lại trong khuôn viên, vì sợ làm ồn các vị
khác (hay còn gọi là động chúng). Một khi ở trong nhà thiền là mình cứ ở trong
nhà thiền đó luôn, tới giờ cúng kiếng gì đó phải ở trên chánh điện thì mình mới
được vào chánh điện, còn ngoài ra không được vào chánh điện, chứ không phải đi
lung tung ở trong đó.”
(biên
bản phỏng vấn số 03).
Trong trường
Hương
gồm có: chức
sự thiền đường[],
thanh quy,
thời khóa tu
học[]…
Vấn đề thời khóa
tu tập trong trường Hương
cũng được quy định:
“Công
phu tụng niệm đàng hoàng, rồi tất cả những oai nghi trong lúc
ở
hạ phải giữ nghiêm
túc lắm, kể cả đi đứng bước ra cửa, vô cửa cũng phải theo cung cách của nó…
Sau này
những quy định này được
gọi là Luật thiền
đường.”
(biên
bản phỏng vấn số 03). Thời khoá tu tập trong trường
Hương
khác hơn so với thời khoá hằng ngày tại các ngôi chùa.
Theo
HT.Thích Hồng Khoa: “Về
thời
khóa
trong ngày, thông
thường công phu tụng kinh thì đương nhiên ở đâu cũng phải làm rồi, nhưng mà
trong đó thêm ngồi thiền, rồi giờ giấc sinh hoạt nó
luôn nối
tiếp. Nếu đúng chương trình
đó
thì
phải đến
10 rưỡi hoặc
11 giờ đêm mới Hòa nam
Thánh chúng
(tức là mới chấm dứt),
trong khi đến
3 rưỡi
ngày hôm sau mình phải dậy rồi.
Thành ra
thời gian ngủ nghỉ cũng ít...
Đến giờ thiền
không phải là thiền
quán
mà là thiền
tịnh,
thiền
để niệm Phật, tịnh
niệm Phật.”
(biên
bản phỏng vấn số 03).
Việc khai mở trường
Hương
không chỉ nhằm chấn chỉnh đời sống sinh hoạt của
Tăng
sĩ, mà còn tạo điều kiện cho
chư Tăng
chung sống trong môi trường trang nghiêm thanh tịnh, để tam nghiệp được tịnh hóa
và giới luật nghiêm minh, giúp
cho
đạo tâm được trưởng dưỡng,
như vậy mới
có thể làm
gương
cho tín đồ Phật tử
noi theo, đồng thời góp phần duy trì mạng mạch Phật giáo.
Sau lần khai mở
trường Hương
đầu tiên tại chùa Giác Lâm, từ đó việc khai mở trường
Hương
trở thành truyền thống và
phổ biến
rộng rãi tại vùng đất Nam Bộ. Với uy đức của
ngài,
nhiều ngôi chùa khai mở định kỳ, tạo điều kiện thuận lợi để tứ chúng có nơi
nương tựa tu tập trong ba tháng. Những chùa tổ chức theo định kỳ được liệt kê
trong Ngũ gia
tông phái ký toàn tập
gồm: “Chùa Giác Lâm tọa
tĩnh hương, an cư 2 lần (kiết hạ và kiết đông); chùa Từ Ân tọa
tĩnh hương, an cư 2 lần (kiết hạ và kiết đông); chùa Hội Phước tọa
tĩnh hương, an cư 1 lần; chùa Phước Hội tọa
tĩnh hương, an cư 1 lần; chùa Phước Hương tọa
tĩnh hương, an cư 1 lần; chùa Sắc Tứ Kiển Phước tọa
tĩnh hương, an cư 1 lần; chùa An Lạc tọa
tĩnh hương, an cư 1 lần; chùa An Lạc tọa
tĩnh hương, an cư 1 lần; chùa Bảo An tọa
tĩnh hương, an cư 1 lần; chùa Sùng Phước tọa
tĩnh hương, an cư 1 lần”.
Không chỉ an cư
kiết hạ mà an cư kiết đông cũng được
ngài
thực hiện: “Từ tháng 9 trở đi nên an cư kiết đông, tu học kinh luật, khảo cứu
giáo nghĩa, tinh thông việc thọ trì, chúc tụng, hầu tiến đạo, nghiêm thân”.
Đây
là một
điểm
hay
của Phật giáo Nam Bộ. Tuy nhiên, về an cư kiết đông thì ít chùa áp dụng so với
an cư kiết hạ.
Để tưởng nhớ và ca
ngợi công hạnh của Thiền sư Tiên Giác - Hải Tịnh trong việc khai mở trường
Hương,
Ngũ gia
tông phái ký toàn tập
đã có những
câu thơ sau:
Cấm túc an cư chế
độ thiền,
Trường hương ba tháng mở
đầu tiên
Dắt dìu Tăng chúng phăng
nguồn đạo
Gội đức từ bi Hải Tịnh
truyền.
Qua những lần khai mở trường
Hương như vậy đã cho chúng ta thấy được công đức to lớn của
Thiền sư Tiên Giác
- Hải Tịnh đối với
Phật giáo Nam Bộ trong việc
chấn chỉnh đời sống
tu tập của hàng Tăng
sĩ.
Khai mở
trường Kỳ
Trường
Kỳ
nay được
gọi là Giới đàn.
Theo
Phật
Quang đại từ điển,
Giới đàn (戒壇)
có nghĩa là:
“Nơi cử
hành nghi thức thụ giới và thuyết giới. Đàn là cái nền đất được đắp hơi cao hơn
mặt đất trong giới trường. Giới trường vốn không cần xây cất nhà cửa, chỉ cần
kết giới làm dấu trên bất cứ chỗ đất trống nào là được”.
Giới đàn
được tổ chức
để truyền thọ giới pháp cho hàng xuất gia và tại gia cần cầu thọ giới.
Trước khi Đức Phật
nhập Niết-bàn, Ngài dạy: “Các thầy Tỷ-kheo,
sau khi Như lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối
mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là
người
thầy cao cả của các thầy. Nếu Như lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy”.
Để trở thành một vị pháp khí
Đại
thừa trong hàng Tăng
bảo thì điều kiện cần và đủ
là
phải đăng đàn thọ
Cụ
túc giới Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo
Ni.
Giới có công năng chuyển hóa
phiền não khổ đau, đưa
đến giải thoát, bởi vì nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ.
Trong
kinh
Di giáo, Đức Phật dạy: “Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải
thoát, nên Như
Lai mệnh
danh Ba-la-đề-mộc-xoa.
Nhờ giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có năng lực huỷ diệt thống khổ”.
Vào khoảng thế kỷ
XIX, có
rất ít giới đàn
được mở tại Nam Bộ. Sử
liệu cũng chưa ghi chép cụ thể.
Tuy nhiên,
Trịnh Hoài Đức trong
Gia Định
thành thông chí
có đề cập giới đàn do Tổ Tông - Viên Quang khai mở: “Năm Gia Long thứ 15
[1816] ông mở giới
đàn, từ đó thiện nam tín nữ đến quy y rất đông, chốn sơn môn càng thêm sinh sắc”.
Từ giới
đàn được mở vào năm 1816
thì
đến năm 1849 mới thấy có một
giới
đàn ở Nam Bộ do Thiền sư Tiên Giác - Hải Tịnh khai mở. Qua đó cho thấy
việc
khai mở giới đàn là rất
ít.
Tuy vậy, sau khi ngài Tiên
Giác trở về Nam Bộ thì có đến bảy
giới đàn được tổ chức
vào
các
năm: 1849, 1862, 1870, 1871, 1872, 1873, 1875.
Qua đây cho thấy sự nhiệt tâm
của ngài đối với sứ mệnh
“truyền đăng tục
diệm”.
Vào
thời kỳ
điều kiện giao thông chưa phát triển, chủ yếu đi xuồng dọc theo những con sông
lớn, vậy
mà
ngài
đã không từ khó nhọc để đến
những
nơi xa xôi,
chẳng hạn như những
vùng biên giới,
để khai mở
giới đàn, nhằm mục đích truyền trao giới pháp cho
các
vị xuất gia, để
“kế vãng khai lai”,
tiếp dẫn
hàng hậu học.
“Bí
quyết quảng đại hoằng thâm đều là do đăng đàn truyền giới; phàm hàng áo thô tu
sĩ phải nối truyền tông chỉ đèn thiền. Cốt cho
trí thân
rộng rãi, sắc tướng rõ ràng.
Giới thể phát do tâm, truyền
thọ phải do thầy. Đạo không có giới thì không rộng rãi. Giới không có thầy thì
chẳng vẹn toàn”.
Đây là một
đóng góp rất lớn của
ngài Tiên Giác
trong việc duy trì,
phát triển Phật giáo ở
vùng đất Nam Bộ.
Trong
đàn
truyền giới gồm có: Đường đầu
Hòa
thượng truyền giới,
Yết-ma A-xà-lê,
Giáo thọ A-xà-lê,
7 vị Tôn chứng sư (được gọi chung là Tam sư thất chứng),
và 4 vị Dẫn thỉnh sư (tứ dẫn thỉnh sư). Giới đàn thường được tổ chức trong vòng
3 ngày. Theo
HT.Thích Hồng Khoa: “Giới đàn tổ chức ba ngày và sử dụng bộ sách
của ngài
Hoằng
Giới,
chứ không phải
Giới
đàn
Tăng như bây giờ. Trong cuốn của ngài Hoằng Giới thì có những điểm nói khác ở
phần Yết-ma, giáo thọ và tất cả đều dùng âm
Hán.
Hiện nay thì dùng cuốn
Giới
đàn
Tăng của Hòa
thượng Thiện Hòa.”
(biên bản phỏng vấn
số 03).
Để ghi nhớ công ơn
to lớn của ngài,
hàng hậu học tại các ngôi tổ đình cũng thường tổ chức giới đàn để tạo điều kiện
cho Tăng
sĩ thăng tiến trong quá trình tu tập. “Nhờ công đức của Hòa
thượng Thiện Trinh và Hòa
thượng Thiện Minh mà các giới đàn luân phiên được tổ chức với sự bảo hộ của
chính quyền địa phương tại Châu Đốc - An Giang. Lần lượt vào những năm 1980,
1982, 1983, 1984, 1985, 1988, 1990, 1993, 1995, 1997 và 2003 luôn mang tên giới
đàn ‘Hải Tịnh’. Đặc biệt giới đàn đầu tiên được tổ chức vào năm 1980 với số
lượng 5.000 giới tử từ khắp mọi miền đất nước về chốn Tổ đình Phú Thạnh để lãnh
thọ giới
pháp”.
Điều này cũng được HT.Thích Thiện Nghĩa, là người thọ giới đàn đầu tiên vào năm
1980, cho biết:
“Giới đàn mang tên Tổ Hải Tịnh được tổ chức liên tục và nhiều
lần tại chùa Phú Thạnh.”
(biên
bản phỏng vấn số 01).
Như vậy,
Thiền sư Tiên Giác - Hải Tịnh là người có công rất
lớn trong
việc phát
triển Phật giáo tại vùng đất Nam Bộ, thể hiện
qua việc trùng tu chùa
chiền, kiến
lập tùng lâm làm nơi
cư ngụ cho
chư Tăng
và nơi gửi gắp tâm
linh của
người Phật tử.
Bên cạnh
đó,
nhằm đưa
đời sống
của người
tu sĩ
vào quy
củ,
ngài
đã tiến
hành
khai
mở trường
Hương,
trường Kỳ.
Trường Hương,
trường Kỳ
được tổ
chức
theo một hệ thống nhất quán, có nghĩa trong thời gian an cư kiết hạ ngoài được
đào tạo về kinh, luật, luận thì giới đàn cũng được theo đó mà tổ chức đan xen
vào. Bên cạnh trường
Hương
còn có khóa kiết đông cho chư
Tăng.
Tuy
nhiên hiện nay phần lớn khu vực Nam Bộ nghi thức kiết đông rất ít được duy trì,
chỉ số ít còn thực hành.