Phật giáo Việt Nam Thế kỷ XXI nhìn từ góc độ nhân gọc văn hóa
PHẬT GIÁO VIỆT NAM THẾ KỶ XXI
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NHÂN HỌC VĂN HÓA
Thích Thanh Tâm
Mở đầu
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của XE "tôn giáo" Phật XE
"Phật" giáo XE "Phật giáo" Việt Nam thế kỷ XXI XE "thời hậu Mao" , bài viết
này đề xuất một mô hình đã được sử dụng bởi các nhà sử học và nhà nhân học văn
hóa XE "nhân chủng học" , mô hình các cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng
đồng văn hóa" .
Có ba kiểu loại về các cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng văn hóa"
Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn này. Đó là (1) các cộng đồng tập trung vào
giảng dạy dựa trên cơ sở các trường phái tư tưởng XE "tư tưởng" Phật giáo đặc
thù, chẳng hạn như Thiền - Tịnh - Mật; (2) các cộng đồng tập trung vào vị đạo sư
XE "vị Đạo sư" , các phong trào Phật giáo kiểu môn phái tập trung vào sự hướng
dẫn tâm linh của một Tăng sĩ XE "Tăng sĩ" hoặc vị thầy cư sĩ XE "cư sĩ" , những
người thường tạo ra các tác phẩm XE "văn bản" và các tài liệu đa phương tiện
của họ; (3) và một cộng đồng văn hóa ấn tống miễn phí, tham gia vào việc sáng
tác, in ấn và phân phối nhiều loại văn bản Phật giáo và các tài liệu đa phương
tiện về các chủ đề Phật giáo khác nhau, được trao đổi và thảo luận tại các địa
điểm chùa XE "chùa" hay tu viện XE "tu viện" Phật giáo được nhà nước công nhận.
1. Khái niệm Nhân học văn hóa
Nhân học là “khoa học nghiên cứu về con người và các khía cạnh văn hóa, xã
hội, sinh học và môi trường của cuộc sống trong quá khứ và hiện tại.”
Cho nên, nhân học văn hóa là một trong bốn lĩnh vực nghiên cứu thuộc lĩnh vực
nhân học rộng lớn hơn (khảo cổ học, nhân học vật lý hoặc sinh học, và ngôn ngữ
học là ba lĩnh vực còn lại). Các nhà nhân học văn hóa chuyên nghiên cứu về văn
hóa và tín ngưỡng, tập quán của các dân tộc cũng như tổ chức xã hội và nhận thức
của các nhóm người. Các nhà nhân học văn hóa nghiên cứu cách những người có
chung một hệ thống văn hóa tổ chức và định hình thế giới vật chất và xã hội xung
quanh họ, và lần lượt được định hình bởi những ý tưởng, hành vi và môi trường
vật chất đó.
Ở đây, nhân học văn hóa được đánh dấu bằng chính khái niệm văn hóa. Trong khi
nhiều định nghĩa về “văn hóa” đã được đưa ra và thảo luận trong các tài liệu học
thuật trong 100 năm, thì một định nghĩa đơn giản nhưng đầy đủ về văn hóa là “kiến
thức mà mọi người sử dụng để sống cuộc sống của họ và cách họ làm như vậy”;
và là “một hệ thống các hành vi (bao gồm kinh tế, tôn giáo và xã hội), niềm
tin (giá trị, hệ tư tưởng) và các sắp xếp xã hội.”
Bên cạnh đó, nhân học văn hóa đôi khi còn được
gọi là nhân học xã hội-văn hóa, nhân học xã hội, hay dân tộc học. Khi các nhà
nhân học không thể dùng yếu tố sinh học hay chủng tộc để giải thích tại sao mọi
người trên thế giới không nói cùng một ngôn ngữ, không cầu nguyện cùng một thần,
họ biết rằng phải có một cái gì khác tạo nên những sự khác biệt này. Đó là văn
hóa, tập hợp những hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được với tư cách là
thành viên của xã hội. Vì con người khắp mọi nơi dùng văn hóa để thích ứng với
thế giới họ đang sống và biến đổi nó, phạm vi của nhân học văn hóa rất là rộng.
Các nhà nhân học văn hóa có khuynh hướng chuyên
nghiên cứu một lĩnh vực nào đó trong hoạt động văn hóa của con người. Có người
nghiên cứu cách xã hội tổ chức thực hiện công việc tập thể trong các lĩnh vực
hoạt động như kinh tế, chính trị, tinh thần, v.v. Lĩnh vực nghiên cứu này của
nhân học văn hóa rất gần với xã hội học và chính từ đây mà người ta xem nhân học
là một ngành khoa học xã hội. Sự thật là xã hội học và nhân học đã được phát
triển trong cùng một thời kỳ và có những vấn đề quan tâm giống nhau về tổ chức
xã hội.
Một yếu tố quan trọng đã phân biệt nhân học với
xã hội học là sự quan tâm của nhân học đối với việc so sánh các hình thức khác
nhau của đời sống xã hội loài người. Các nhà nhân học văn hóa đã tìm hiểu các
dạng thức đời sống vật chất tìm thấy trong nhiều nhóm cư dân khác nhau.
Họ nghiên cứu đối chiếu về ngôn ngữ, âm nhạc,
múa, nghệ thuật, thi ca, triết lý, tôn giáo, hay lễ nghi có nhiều mối quan tâm
học thuật giống với các chuyên gia trong các ngành mỹ thuật và khoa học nhân
văn.
2. Ba cộng đồng văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay
2.1. Các cộng đồng XE "cộng đồng" chú trọng vào giảng dạy
Các chùa, tu viện, thiền viện tổ chức khóa tu Bát quan trai hàng tháng dành cho
mọi lứa tuổi; tổ chức khóa tu mùa hè, khóa tu sinh viên XE "Sống thiền" hằng
năm, thường kéo dài một ngày hay một tuần cho những người thích tìm hiểu về
triết lý Thiền - Tịnh và trải nghiệm giáo lý vào cuộc sống thường nhật XE "thiền
viện" . Đây là một phần của cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng văn
hóa" tập trung vào giảng dạy: chia sẻ kiến
thức về giáo lý trong kinh điển
XE "kinh điển" , diễn giải giáo lý Thiền - Tịnh của các vị giáo thọ và các bài
luận giải về giáo lý trong các ấn phẩm XE "ấn phẩm" định kỳ. Hầu hết họ đã mua
các tài liệu để đọc ở các hiệu sách thương mại hoặc thư quán trong chùa XE
"chùa" ; đôi khi cũng nhận được các tài liệu trực tuyến miễn phí khác hay trực
tiếp tại các chùa và tu viện XE "tu viện" .
Ngoài việc tham gia các khóa tu hàng tháng hay các khóa tu mùa hè hàng năm, các
Phật tử hay những người tu học tham gia vào cộng đồng XE "cộng đồng" chú trọng
về sự giảng dạy, đôi khi tụ tập thành các nhóm nhỏ để thảo luận về nội dung của
các tài liệu mà họ đã đọc, và thực hành XE "thực hành" Thiền - XE "hành thiền"
Tịnh cùng nhau trong các nhóm sinh viên ở các trường đại học, ở trong một số ít
các trung tâm Thiền - Tịnh hoặc là một phần của các nhóm tu tập nhỏ được tổ chức
ở nhà hoặc trong các căn hộ cho thuê ở khu vực thành thị.
Trong khi chia sẻ các bài đọc và thực hành, thành viên cộng đồng này hiếm khi
đọc hết các tác phẩm của một bậc thầy cụ thể theo phương cách cộng đồng văn hóa
XE "cộng đồng văn hóa" lấy vị đạo sư XE "vị Đạo sư" làm trung tâm. Họ cũng
tiếp xúc với hàng loạt các tài liệu in về chủ đề Phật XE "Phật" giáo XE "Phật
giáo" tập trung vào việc thực hành pháp môn XE "pháp môn" Thiền - Tịnh XE "Tịnh
độ" , những lời hướng dẫn nghi lễ, v.v. Nội dung các tài liệu mà cộng đồng
văn hóa này đọc và thảo luận thường tập trung vào việc tự cải thiện nếp sống
tinh thần nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Những người tham gia cộng đồng này
ít giống những người trong hai cộng đồng văn hóa khác, coi mình là một phần của
phong trào tôn giáo XE "tôn giáo" tập thể. Tuy nhiên, trong số ba cộng đồng đó,
cộng đồng văn hóa tập trung vào giảng dạy này là cộng đồng kết nối chặt chẽ nhất
với các Tăng sĩ XE "Tăng sĩ" của các ngôi chùa XE "chùa" . Nói chung, họ cũng
muốn truyền bá tất cả các pháp môn XE "pháp môn" của Phật giáo cho mọi người,
cho giới trẻ, một thế hệ đông đảo và được giáo dục tốt.
2.2. Các cộng đồng XE "cộng đồng" tập trung vào vị đạo sư XE
"vị Đạo sư"
Những người tham gia vào các cộng đồng XE "cộng đồng" này tập trung chủ yếu vào
vị giáo thọ, thường là tu sĩ nhưng đôi khi cũng là cư sĩ XE "cư sĩ" . Những
thành viên của các cộng đồng này thường chỉ đọc những giáo lý XE "giáo lý" được
thầy cho phép, thường là những bài giảng do chính các thầy giáo thọ viết, cả ở
dạng in hoặc trực tuyến.
Các cộng đồng XE "cộng đồng" tập trung vào vị thầy có hai kiểu. Đầu tiên và phổ
biến nhất là nhóm “ảo”, là các thầy giáo thọ và học trò không bao giờ hoặc hiếm
khi gặp nhau trực tiếp. Nhiều trong số những vị đạo sư cư trú ở Tây Tạng, Đài
Loan, Mỹ, hoặc cộng đồng Phật giáo khắp nơi trên thế giới hoặc trong nước nhưng
vẫn giữ vai trò đạo sư đối với Phật tử Việt Nam. Vào lúc đầu, một số người học
trò gặp thầy dạy mình trên mạng. Cuối cùng, phải đi du lịch rất xa để gặp gỡ
những người thầy này và học hỏi trực tiếp từ họ. Nhiều trang web của các vị đạo
sư được thiết kế để nhận sự cúng dường, và các học viên đôi khi cạnh tranh với
nhau để xem ai có thể cung cấp thời gian và tiền bạc nhiều nhất cho các vị đạo
sư. Nói chung, những người tham gia vào các cộng đồng văn hóa XE "cộng đồng văn
hóa" lấy đạo sư làm trung tâm không liên kết được với các nhóm có trụ sở tại
các ngôi chùa XE "chùa" , hoặc ban đầu gặp nhau tại các ngôi chùa, nhưng sau đó
nhanh chóng nhóm họp ở nơi khác, thường là nhà riêng hoặc nơi được chỉ định cụ
thể, hay địa điểm cho thuê.
Kiểu thứ hai của cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng văn hóa" lấy
đạo sư làm trung tâm, chủ yếu liên quan đến mối quan hệ cá nhân, trực diện giữa
vị đạo sư và học trò. Khi cả hai kiểu thường được kết nối với các vị đạo sư tại
các chùa XE "chùa" có địa chỉ rõ ràng; trong đó, kiểu thứ hai này, các vị đạo
sư chủ yếu hoặc chỉ tương tác với các đệ tử tại các địa điểm rõ ràng chứ không
phải trong một bối cảnh ảo.
2.3 Cộng đồng ấn tống, phân phối kinh sách miễn phí
Kiểu cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng văn hóa" thứ ba này có số
lượng người tham gia lớn hơn và phổ biến hơn hai kiểu loại kia. Nó được tạo nên
từ việc sáng tác, sao chép và phân phối miễn phí các ấn phẩm XE "ấn phẩm" và
tài liệu đa phương tiện về chủ đề Phật XE "Phật" giáo XE "Phật giáo" . Trong
khi một số tài liệu mà cộng đồng văn hóa này tiếp nhận trực tiếp từ các nhà xuất
bản XE "xuất bản" XE "Phúc Kiến" , hoặc các cơ sở ở nước ngoài XE "Jingkong" ,
phần lớn được xuất bản hoặc tái bản thông qua những nỗ lực cá nhân hoặc những
nhóm nhỏ của những người cộng tu. Nói chung, các thành viên trong cộng đồng văn
hóa này được thúc đẩy tham gia sáng tác, tái bản và phân phối miễn phí các tài
liệu; bởi vì, ngoài việc có công đức XE "công đức" rất lớn, họ tin rằng việc
tham gia vào các hoạt động XE "hoạt động" này là một phần quan trọng rèn luyện
thành người có đạo đức XE "đạo đức" .
Nội dung của các tài liệu mà các thành viên trong cộng đồng XE "cộng đồng" phân
phối tự do XE "tự do" ấn tống rất đa dạng: một số là sách hướng dẫn thực hành
XE "thực hành" nghi lễ chuẩn mực hoặc các quy ước thiền môn; những tài liệu
khác gồm các bài hát được sáng tác từ sách đạo đức XE "đạo đức" hoặc kinh điển
XE "kinh điển" Phật XE "Phật" giáo XE "Phật giáo" cùng với các bản chú giải
XE "chú giải" về ý nghĩa XE "hiện đại" . Các loại tài liệu khác bao gồm những
giới thiệu về giáo lý Phật giáo và tiểu sử các bậc cao Tăng danh tiếng, hoặc các
cư sĩ XE "cư sĩ" mộ đạo trong quá khứ XE "quá khứ" cũng như thời hiện đại.
3. Nguyên lý trao đổi và tính phân cấp trong các cộng đồng văn hóa Phật giáo
Việt Nam hiện nay
3.1. Nguyên lý trao đổi trong các cộng đồng văn hóa
Nói chung, các thành viên trong ba loại cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE
"cộng đồng văn hóa" này tham gia vào các hình thức trao đổi khác nhau là bắt
nguồn từ các suy xét đạo đức XE "đạo đức" trái chiều về cách thức tôn giáo cho
và nhận những điều thiện và những loại quan hệ nào đó; nếu có, những trao đổi
này sẽ hình thành giữa các bên có liên quan.
Hầu hết những người tham gia vào cộng đồng thứ nhất thường chấp nhận rằng, việc
trả phí cho các tài liệu tôn giáo là hợp lý. Đối với họ, nó giữ vững lý do, nếu
những người khác dành thời gian và các nguồn lực XE "nguồn lực" để tạo
ra một cuốn sách hay DVD sâu sắc, người mà có được lợi ích lấy từ những kiến
giải của cuốn sách đó sẽ trả tiền giống như người ta sẽ trả cho bất kỳ thứ gì
khác có giá trị. Về mặt này, chúng tương tự như các hành giả, người sẵn sàng mua
các ấn phẩm XE "ấn phẩm" định kỳ Phật XE "Phật" giáo XE "Phật giáo" và sách
chủ đề Phật giáo, được xuất bản XE "xuất bản" bởi các nhà xuất bản thương mại.
Như vậy, với hình thức trao đổi dựa trên hàng hóa, mối quan hệ giữa người tiêu
thụ sách và người mua phần lớn không hình thành mối quan hệ xã hội XE "xã hội"
giữa người tạo ra và người thọ nhận.
Các cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng văn hóa" thứ hai, hầu như
tập trung chủ yếu không chỉ xung quanh việc trao đổi dựa trên thương phẩm mà còn
là sự trao đổi hỗ tương.
Khi tham gia vào mối quan hệ với những bậc thầy, các tín đồ không bắt buộc phải
mua bất cứ thứ gì, nhưng họ được kỳ vọng cúng dường cho vị pháp sư XE "Pháp sư"
và các dự án tâm linh để nuôi dưỡng ân huệ của các bậc đạo sư. Kiểu cách cúng
dường này là hiển nhiên nhất với các bậc thầy “ảo”, một số vị công khai kêu gọi
sự quyên góp trên trang web, nhưng nó cũng hiện hữu ở các hòm công đức XE "công
đức" cùng với các bàn công đức bên ngoài lối vào hội trường chính trước buổi
diễn thuyết hàng tuần của vị giảng sư để nhận quà và tiền mặt từ các học trò,
hoặc chuyển khoản. Nói chung, càng gần gũi với vị đạo sư, mối quan hệ trao đổi
quà tặng XE "quà tặng" càng mãnh liệt.
Loại cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng văn hóa" thứ ba, đề cao sự
trao đổi miễn phí trong môi trường tôn giáo XE "tôn giáo" , là một hệ thống trao
đổi qua lại trong tôn giáo. Ở đây tôi thảo luận về việc phát tâm công đức XE
"công đức" , những món quà cúng dường, không giống như trao đổi quà tặng XE "quà
tặng" qua lại, trong trao đổi phẩm vật mang tính tôn giáo, không có mối quan hệ
nào được hình thành giữa người hiến cúng và người nhận; điều đó bắt buộc phải
trả lại một món quà dưới bất kỳ hình thức nào. Như vậy, điều quan trọng là người
nhận không được gửi trả lại người hiến cúng vì mục đích của người cúng là sẽ
nhận một món quà trao lại dưới hình thức công đức để sám hối tội lỗi. Cũng như
thế, không giống như người nhận trong hệ thống trao đổi hiến tặng XE "hiến tặng"
có đi có lại, nhằm mục đích hình thành các mối quan hệ xã hội XE "xã hội"
thông qua trao đổi; những người quyên tặng ấn phẩm XE "ấn phẩm" chủ đề Phật XE
"Phật" giáo XE "Phật giáo" nhằm thúc đẩy cộng đồng văn hóa này không tìm cách
thiết lập mối quan hệ xã hội với người nhận, mà chỉ để có được công đức và thực
hiện vai trò xã hội đúng đắn về mặt đạo đức XE "đạo đức" , bằng cách tự nguyện
hiến tặng tư liệu của họ.
Họ tin rằng những người nhận các tài liệu đó cũng sẽ có được công đức, vì họ có
thể tiến bộ về mặt tâm linh bằng cách đọc hoặc xem các tài liệu Phật giáo, và
cũng tác động đến những hành động tốt của họ. Quả thực, đó là hành động tốt được
thực hiện bởi những người nhận các phương tiện khiến việc tham gia vào sự phân
phối trở thành hành động công đức cho những người hiến cúng. Hành động hiến tặng
đã tạo nên một lượng công đức tương đương cho cả hai bên.
3.2. Tính phân cấp trong các cộng đồng văn hóa
Chắc chắn, nhân tố nổi bật nhất để phân biệt sự tham gia trong các cộng đồng văn
hóa khác nhau này là tầng lớp xã hội XE "xã hội" . Có hai thành tố liên kết chặt
chẽ với nhân tố này: (1) tiếp cận, (2) đạo đức XE "đạo đức" trao đổi.
1. Tiếp cận. Nhân tố chính trị XE "chính trị" và kinh tế đều hạn chế sự
tiếp cận của các thành viên bị thiệt thòi về mặt xã hội XE "xã hội" và kinh tế,
đối với một số loại ấn phẩm XE "ấn phẩm" tôn giáo XE "tôn giáo" và các buổi
diễn giảng xung quanh họ. Sự quan tâm của nhà nước trong việc mở cửa các khối
thị trường kinh tế đã tạo ra không gian XE "không gian" cho tôn giáo, nhưng
không phải ai cũng có quyền tiếp cận thị trường như nhau, nên khả năng mở cửa
thị trường không dẫn đến việc tạo ra quyền tiếp cận bình đẳng XE "bình đẳng"
các buổi giảng pháp cho hết thảy mọi người. Nói chung, các thành viên tiềm lực
kinh tế càng kém, càng nhiều hạn chế chính trị thì trong việc thực hành XE "thực
hành" tôn giáo sẽ hạn chế khả năng tiếp cận các loại ấn phẩm tôn giáo được chia
sẻ và thảo luận trong hai loại cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng
văn hóa" Phật XE "Phật" giáo XE "Phật giáo" đầu tiên. Như đã chỉ ra, các cộng
đồng văn hóa tập trung vào việc giảng dạy giáo pháp XE "giáo pháp"
thường tạo thành các bài diễn giảng thông qua chia sẻ việc đọc các tác phẩm mua
tại các hiệu sách. Các thành viên phương tiện kinh tế kém hơn, chẳng hạn, những
người tham gia vào cộng đồng văn hóa phân phối miễn phí, thường không thể có đủ
điều kiện để mua các tác phẩm đó.
Tương tự như vậy, một trong những lĩnh vực thuyết giảng XE "thuyết
giảng" tôn giáo XE "tôn giáo" ít bị kiểm soát nhất hiện nay là trực
tuyến. Những người tham gia vào cộng đồng XE "cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng
văn hóa" ấn tống miễn phí cũng thường thiếu cả kinh phí và bí quyết để tiếp cận
các tài liệu trực tuyến này. Các cộng đồng dựa trên nền tảng các vị đạo sư XE
"vị Đạo sư" , có địa điểm cụ thể, cũng tương đối khó tiếp cận với số thành viên
học trò nghèo này. Những tín đồ ít may mắn của các bậc thầy cũng không thường
xuyên đến trung tâm tu học vì rất nhiều hoạt động XE "hoạt động" mà trung tâm
tổ chức đòi hỏi đóng phí. Tóm lại, khi các không gian tôn giáo ngày nay XE "ngày
nay" đang tiếp tục mở ra ở cả không gian vật lý XE "vật lý" và trực tuyến,
cách xa các địa điểm tôn giáo được cho phép, những thành viên đồng tu kém kinh
tế khó tiếp cận được các không gian tôn giáo mới này, và các cộng đồng văn hóa
có các buổi thuyết giảng được tổ chức ở trong các không gian mới thường bị giới
hạn. Vì lý do này, những thành viên như thế bị cuốn hút vào cộng đồng văn hóa ấn
tống miễn phí, thường nhóm họp tại các địa điểm tôn giáo được nhà nước phê
duyệt.
2. Đạo đức trao đổi. Nhiều người trong cộng đồng XE "cộng đồng" phân
phối miễn phí giải thích, nhân tố quan trọng cuốn hút họ đến với giáo lý XE
"giáo lý" Phật XE "Phật" giáo XE "Phật giáo" là chủ nghĩa bình đẳng XE "bình
đẳng" và tầm quan trọng từ bi rộng lớn XE "thời hậu Mao" . Với những thành viên
này, nhiều người trong số họ có phương tiện kinh tế hạn chế nên không khó để
hiểu được sự bất lực như thế nào để mua hàng hóa hoặc chi tiêu tiền mặt nhằm
nuôi dưỡng các mối quan hệ. Như đã chỉ ra, nhu cầu về tiền bạc thường loại trừ
các thành viên cộng tu kém kinh tế từ hai loại cộng đồng văn hóa XE "cộng đồng
văn hóa" đầu tiên. Ngược lại, cộng đồng văn hóa thứ ba, cộng đồng mà khuyến
khích một cuộc thảo luận về tầm quan trọng của việc tặng miễn phí các ấn phẩm XE
"ấn phẩm" Phật giáo và tự do XE "tự do" chia sẻ kiến
thức và hiểu biết giữa các cư
sĩ XE "cư sĩ" , thường có sức lôi cuốn nhất đối với nhóm kém thịnh vượng này.
Truy cập miễn phí vào các tư liệu tôn giáo XE "tôn giáo" không chỉ cho phép các
thành viên đồng tu yếu về kinh tế có thể thu thập tư liệu tôn giáo và sự hiểu
biết, mà còn truyền bá đạo lý để trả khoản tiền truy cập vào các tư liệu hoặc
những giáo lý tiêu biểu cho việc tu sửa đạo đức XE "đạo đức" bằng các nguyên lý
Phật giáo chân chính. Thật vậy, những người tham gia vào cộng đồng văn hóa này
thường nhấn mạnh, bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào cũng là bằng chứng của
tâm phân biệt XE "tâm phân biệt" và sự thiếu hiểu biết về bản chất tương kết
của tất cả chúng sinh XE "chúng sinh" . Khi các thành viên bị thiệt thòi về kinh
tế tham gia vào một cộng đồng văn hóa, nơi những bài giảng của những người theo
chủ nghĩa bình đẳng này được chia sẻ và củng cố, họ sẽ làm việc để bác bỏ ý kiến
cho rằng chính bản thân họ
không phù hợp và thay cho việc tìm lỗi với các giá trị của xã hội XE "xã hội"
bao quanh. Trớ trêu thay, sự thiệt thòi chính trị XE "chính trị" hạn chế quyền
truy cập vào các tài liệu tôn giáo ở các địa điểm tôn giáo được chấp thuận,
những điều đó cũng khiến cho một cộng đồng trở nên rời rạc, lạc lõng, trong việc
tập trung chia sẻ hàng loạt các ấn phẩm và những tư liệu đa phương tiện, nhưng
càng gắn kết hơn bởi các thành viên có cùng chí hướng có thể nhóm họp ở những
nơi tương đối riêng biệt. Đó là cách mà các cuộc thảo luận và thuyết giảng XE "thuyết
giảng" xuất hiện xung quanh các tài liệu này, trong đó, lần lượt, tạo ra
nhiều thành phần và phổ biến hơn nữa.
Kết luận
Khi nghiên cứu XE "nghiên cứu" thực tiễn XE "thực tiễn" Phật XE "Phật"
giáo XE "Phật giáo" Việt Nam đương đại dựa trên sự phân chia các cộng đồng XE
"cộng đồng" văn hóa XE "cộng đồng văn hóa" , cần lập biểu đồ những người thực
hành XE "thực hành" Phật XE "Phật" giáo XE "Phật giáo" ngày nay XE "ngày nay"
bằng cách nêu chi tiết các mối liên hệ và ranh giới rời rạc mà đã hình thành
niềm tin và sự thực hành tôn giáo XE "tôn giáo" của họ. Nó làm sáng tỏ lý do
tại sao một số hành giả Phật giáo, những người tu học tại các địa điểm tập trung
vào vị thầy, cảm thấy mối quan hệ tâm linh mạnh mẽ với một địa điểm Phật giáo cụ
thể và với những người đồng tu ở đó; trong khi những người khác, không chia sẻ
sự thực hành hoặc sự đồng nhất tôn giáo chung với đa số những người cùng tu
khác, những người mà có thể thuộc các kiểu loại khác về cộng đồng văn hóa và
thực hành các hình thức tôn giáo, giống như Phật giáo và không theo Phật giáo.
Ngược lại, cách tiếp cận cộng đồng văn hóa cũng tiết lộ lý do tại sao những
người tham gia cộng đồng văn hóa thứ nhất XE "Chaoyang" có thể chia sẻ mối quan
hệ tâm linh mạnh mẽ với nhau, trong khi hầu như không có sự kết hợp hay quan tâm
với hầu hết các ngôi chùa Phật giáo khác. Cho nên, làm thế nào để một tôn giáo
như Phật giáo có thể quan tâm đến các tín đồ từ nhiều gia cảnh kinh tế xã hội đa
dạng, và trên thực tế, thành viên của các tầng lớp xã hội khác nhau đều có thể
tự nhận mình là Phật tử XE "Phật tử" và chấp nhận hoàn toàn mọi “phiên bản”
khác nhau của Phật giáo. Tóm lại, cách tiếp cận cộng đồng văn hóa không cần chỉ
giới hạn về những người thực hành tôn giáo đương đại mà còn có thể được áp dụng
một cách hiệu quả vào phân tích lịch sử XE "lịch sử" về những thực hành lấy cảm
hứng từ Phật giáo ở các giai đoạn khác nhau của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Trung Ẩn sơn, Thiệu Long tự, 10/2020
Tài liệu tham khảo
1. Blackburn, Anne M. 2001. Buddhist Learning and Textual Practice in
Eighteenth-Century Lankan Monastic Culture. Princeton: Princeton University
Press.
2. Fisher, Gareth. 2014. From Comrades to Bodhisattvas: Moral Dimensions of
Lay Buddhist Practice in Contemporary China. Honolulu: University of Hawaii
Press.
3. Gregory, Chris A. 1982. Gifts and Commodities. London: Academic Press.
4. Handwerker, W. Penn. 2002. “The Construct Validity of Cultures: Cultural
Diversity, Culture Theory, and a Method for Ethnography,” American
Anthropologist 104 (1):106.
5. Jones, Alison Denton. 2010. “A Modern Religion? The State, the People, and
the Remaking of Buddhism in Urban China Today.” PhD diss. Harvard
University.
6. Laidlaw, James. 2000. “A Free Gift Makes No Friends,” Journal of the Royal
Anthropological Institute 6, no. 4 [2000]: 617-34).
7. Mauss, Marcel. 2000. The Gift: The Form and Reason for Exchange in Archaic
Societies. Trans. W. D. Halls. New York: Norton.
8. Parry, Jonathan. 1986. “The Gift, the Indian Gift, and the ‘Indian Gift,’”
Man 21, no. 3 [1986]: 453–73.
9. Stock, Brian. 1983. The Implications of Literacy: Written Language and
Models of Interpretation in the Eleventh and Twelfth Centuries. Princeton:
Princeton University Press.
10. Schultz E.A. and R.H. Lavenda. Phan Ngọc Chiến dịch. 2001. Nhân học - Một
quan điểm về tình trạng nhân sinh. NXB.Chính Trị Quốc Gia.
11. Tylor, Edward Burnett. 1877. Primitive Culture 1. New York: Holt,
Rinehart and Winston.
12. Yü, Dan Smyer. 2012. The
Spread of Tibetan Buddhism in China: Charisma, Money,
Enlightenment. London: Routledge.
Xem thêm Tylor, Edward Burnett. Primitive Culture 1. New York:
Holt, Rinehart and Winston, 1877.
Xem thêm Schultz E.A. and R.H. Lavenda. Phan Ngọc Chiến dịch. Nhân
học - Một quan điểm về tình trạng nhân sinh. NXB.Chính Trị Quốc Gia,
2001.
Xem thêm Yü, Dan Smyer. The Spread of Tibetan Buddhism in China:
Charisma, Money, Enlightenment. London: Routledge, 2012.
Xem thêm Yü, Dan Smyer. The Spread
of Tibetan Buddhism in China: Charisma, Money, Enlightenment.
London: Routledge, 2012.