Đức Phật: Vị đạo sư vĩ đại
Đức Phật
Đức Phật: Vị đạo sư vĩ đại
Đức Phật đã ra đời cách đây 2.564 năm. Giáo sư Lewis Lancaster nói rằng người
phương Tây thoạt tiên xem Đức Phật như một nhân vật huyền thoại. Nhưng khi các
nhà khảo cổ tìm ra những địa danh trùng khớp với tiểu sử của Ngài, hay trụ đá
dựng lên từ thời Ashoka ghi rõ “Đây là nơi Đức Phật sinh ra”, thì ông kết luận,
“Như vậy với thời gian, việc tập hợp những di tích ấy cho phép các nhà nghiên
cứu giả định rằng có một nhân vật lịch sử mà đời sống gần gũi với những câu
chuyện kể trong dân gian lưu truyền qua ba thế hệ vào thời vua Ashoka.”
H.W. Schumann viết: “Thật hiếm nhân vật nào trong lịch sử tư tưởng nhân loại
từng có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài như Đức Phật Siddhattha Gotama, và cũng
không ai từng để lại dấu ấn sâu đậm trên toàn châu Á như Ngài. Ðạo giáo do Ngài
sáng lập không chỉ đem lại nguồn an ủi cho vô số người mà còn cung cấp nền tảng
học thuyết nhân bản cao thượng và một di sản văn hóa vô cùng tinh tế.”
“…Chúng ta cần phải thấy trong kinh nghiệm giác ngộ (bodi) của Đức Phật vào
năm 528 trước TL cả một biến cố trọng đại không chỉ đem lại đạo pháp cho thế
giới, mà còn chuyển biến Thái tử Siddhatta Gotama với khuynh hướng nội tâm nổi
bật ấy trở thành Đức Phật hướng ngoại theo định kỳ. Kinh nghiệm giác ngộ ấy đã
đổ xô về hướng biểu lộ tâm tư qua ngôn ngữ với một sức mạnh vĩ đại biết chừng
nào! Nó khiến Đức Phật đi tìm nhiều người để Ngài có thể khai thị các khám phá
của Ngài và truyền thụ kho tàng tâm linh mà Ngài vừa tìm được.”
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại, vị giáo chủ, và cũng là nhà truyền giáo
tích cực nhất, bền bỉ nhất, giản dị nhất, bao dung nhất, không thể ai khác hơn
Đức Phật. Suốt bốn mươi chín năm, Đức Phật đi không ngừng nghỉ, từ nơi giàu sang
tới chốn nghèo hèn. Đến đâu, Ngài cũng tùy duyên hóa độ, chỉ dẫn con đường tìm
được sự giải thoát rốt ráo. Hòa thượng K. Sri Dhammananda, tác giả cuốn What
Is This Religion?, đã tôn xưng Ngài là Bậc Đạo sư vĩ đại của nhân loại.
Những lời dạy của Ngài từ hai mươi sáu thế kỷ trước vẫn được áp dụng một cách
hài hòa, thực tiễn cho đến ngày nay, là minh chứng hùng hồn về giá trị của giáo
pháp mà Ngài đã tìm ra.
Tính hiện đại trong phương pháp giáo dục của Đức Phật
Tư duy phản biện
Chúng ta hiểu tư duy phản biện hay tư duy phân tích là một quá trình tư duy biện
chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác nhau
cho vấn đề được đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn
đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm.
Dựa vào những nghiên cứu gần đây, các nhà giáo dục đã hoàn toàn tin tưởng rằng
trường học hôm nay nên tập trung hơn vào việc dạy học sinh tư duy phản biện. Tư
duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động
mà hướng người học, nhất là sinh viên, thấm nhuần tình thành đại học: tự khám
phá và tìm ra kết luận.
Việc học pháp của nhà Phật tự ngàn xưa đã dựa trên tình thần phản biện. Phật dạy:
Chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó là truyền thuyết. Chớ vội tin điều gì chỉ vì
điều đó thuộc về truyền thống. Chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được nhiều
người nhắc đến hay tuyên truyền. Chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được ghi lại
trong sách vở hay kinh điển. Chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó lý luận siêu
hình. Chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình. Chớ
vội tin điều gì chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình. Chớ vội tin điều
gì khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt. Chớ vội tin điều gì chỉ
vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ. Chớ vội tin điều gì chỉ vì điều ấy
được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.”
Phương pháp dạy học hiện đại là gì?
Phương pháp dạy học hiện đại hay còn có tên gọi khác là phương pháp dạy học tích
cực. Phương pháp này hiện hữu ở các nước phương Tây trong thế kỷ XX. Trong những
năm gần đây, phương pháp dạy học hiện đại đang ngày càng có ảnh hưởng rộng rãi
đến các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Như chúng ta đã biết, phương
pháp dạy học truyền thống là những phương pháp được cha ông chúng ta truyền lại
qua nhiều thế hệ, phương pháp này sẽ lấy người thầy, người dạy học là trung tâm.
Phương pháp dạy học hiện đại là phương pháp dạy cho học sinh, sinh viên chủ động
trong suy nghĩ, tư duy và hành động. Ở phương pháp này, người thầy chỉ giữ vai
trò định hướng, đưa ra ý kiến gơi ý, hướng dẫn tìm kiếm tài liệu, tổ chức các
buổi thảo luận, tranh luận cho học sinh, sinh viên của mình. Từ đó người học sẽ
chủ động trong việc tìm kiếm thông tin, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện khả năng
phán đoán và trưởng thành, tự tin hơn qua mỗi bài học. Do phương pháp dạy học
hiện đại rất chú trọng tới kỹ năng thực hành, nên học sinh, sinh viên có khả
năng linh hoạt trong việc xử lý các tình huống thực tiễn. Rèn luyện cho học
sinh, sinh viên tính chủ động trong lối suy nghĩ, tư duy khi học tập.
- Phương pháp hỏi - đáp: là phương pháp giáo viên sẽ đưa ra các câu hỏi để học
sinh trả lời hoặc tranh luận, đưa ra ý kiến phản bác, từ đó học sinh có thể rút
ra được bài học. Đây là phương pháp Đức Phật sử dụng lời nói để giảng dạy giáo
pháp cho hàng đệ tử và thính chúng. Ngài nêu ví dụ cụ thể, giảng giải, đàm
thoại, kể chuyện, đặt câu hỏi và trả lời.
Ví dụ: Khi những người Koliya tìm đến Phật và thưa với Ngài và mong được học
những pháp đem đến hạnh phúc an lạc trong hiện tại và tương lai. Đức Phật hỏi họ
từng điều một liên quan đến nghề nghiệp và phương thức họ phòng hộ, giữ thăng
bằng, điều hòa, giữ gìn tài sản, rồi Ngài đọc bài kệ kết luận:
“Tháo vát trong công việc
Không phóng dật, nhanh nhẹn,
Sống đời sống thăng bằng
Giữ tài sản thâu được
Có tín, đầy đủ giới
Bố thí, không xan tham.
Rửa sạch đường thượng đạo
An toàn trong tương lai
Đây chính là tâm pháp
Bậc tín chủ tìm cầu
Bậc chân thật tuyên bố
Đưa đến lạc hai đời:
Hạnh phúc cho hiện tại
Và an lạc tương lai.”
Bằng cách này, Đức Phật đã làm cho giáo lý của mình được phổ biến rộng rãi đến
với mọi người. Phương pháp đặt câu hỏi và trả lời làm cho hành giả rất dễ tiếp
nhận lời dạy một cách thấu triệt. Về sau, phương pháp này được áp dụng nhiều
trong nhà thiền, nhất là Thiền tông Trung Hoa, còn được gọi là thiền Công án.
Trong các công án thiền, có những câu nói gợi ý ngắn gọn, có những câu hỏi phản
vấn, có những câu sử dụng tính mâu thuẫn và cả đến sử dụng cái “vô ngôn” như một
cú đánh, một tiếng hét, với gậy hèo..., nhằm thức tỉnh cái khả năng tự chứng.
Phật tính như viên ngọc nằm trong túi áo của mỗi người, ngộ là mình tự ngộ, chứ
không ai ngộ cho mình được. Người thầy cần làm sao để học trò tự phát triển, tự
ngộ.
- Phương tiện thiện xảo (upaya-kosalla): Phương tiện thiện xảo là một đặc
trưng về phương pháp trong giáo dục Phật giáo. Trong phẩm Phương tiện của kinh
Pháp hoa, Đức Phật dạy: “Chư Phật trong quá khứ… trong vị lai… trong
hiện tại dùng vô lượng, vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ
để vì chúng sinh mà diễn nói pháp. Các pháp đó đều là một Phật thừa, nên các
chúng sinh theo chư Phật nghe pháp, cứu cánh đều thể chứng được Nhất thiết chủng
trí”. Rồi do lòng đại từ bi, Ngài quyết định giảng pháp cho những ai muốn
nghe để cứu độ họ. Những đối tượng khác nhau có hoàn cảnh, căn cơ khác nhau đòi
hỏi có phương pháp, biện pháp giáo dục khác nhau. Đấy là sự cần thiết phải có
phương tiện thiện xảo trong giáo dục.
“Kinh Thí dụ con rắn (số 320 của Trung bộ kinh) kể thí dụ người
dùng bè qua sông, đến bờ bên kia người ấy phải bỏ bè mà đi chứ không vác bè
theo. Ngài dạy: ‘Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt
qua sông chứ không phải để nắm giữ. Này chư Tỷ-kheo, các ông cần phải hiểu thí
dụ chiếc bè… Chánh pháp còn phải bỏ đi huống là phi pháp’. Trong kinh Viên
giác, phẩm Thanh tịnh tuệ, Đức Phật dạy: ‘Tất cả giáo lý của kinh đều như
ngón tay chỉ mặt trăng’”.
- Phương pháp giảng dạy bằng ẩn dụ và ảnh dụ
Trong kinh Pháp hoa có nêu ví dụ về “ngôi nhà lửa”, kể về một vị trưởng
giả giàu có. Căn nhà của ông đang bốc cháy nhưng các con ông vẫn không hề hay
biết, mãi tung tăng vui đùa trong đó. “Ngôi nhà lửa” đang bị bốc cháy là ví dụ
cho chúng sinh bị sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não đốt cháy. Xe dê, xe
hươu, xe trâu là chỉ cho ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa. “Cha” hay
“ông trưởng giả” là chỉ cho Đức Phật, bậc đã giác ngộ. “Các người con” là chỉ
cho tất cả chúng sinh. Những người con đã vì ba xe này mà ra khỏi nhà lửa là
chỉ cho những bậc Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát. Nhưng cuối cùng, Phật chỉ
đem “cỗ xe lớn”, trang nghiêm nhất để ban cho chúng sinh, đó chính là Phật thừa.
Đức Thế Tôn ví “ái dục” như khúc xương, như miếng thịt, như bó đuốc cỏ khô, như
hố than hừng, như cơn mộng, như vật dụng cho mượn, như trái cây, như lò thịt,
như gậy nhọn... Với hàng loạt ví dụ trên, Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy
được sự nguy hiểm của các dục.
“Người sống đời phóng dật
Ái tăng như dây leo
Nhảy đời nay đời khác
Như vượn tham quả rừng.”
(Pháp cú 24 - phẩm Tham ái)
“Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi ngưới ấy
Như giọt nước lá sen.”
Hay như câu chuyện bà Kisa Gotami có một đứa con và đứa con đó đã mang đến nguồn
hạnh phúc cho bà, nhưng không may con bà đã chết khi vừa biết chạy. Đó là nỗi
bất hạnh lớn lao đã khiến bà đau khổ tột cùng. Trong niềm đau xót ấy, bà chỉ
biết ôm đứa con vào lòng và đi đến từng nhà, từng người để khẩn cầu: “Hãy cho
con tôi thuốc”. Nhân duyên đã dẫn dắt, bà đi đến tinh xá và cũng xin Đức Phật
như vậy: “Hãy cho con tôi thuốc”. Đức Phật bảo: “Cô hãy vào làng xin một nắm hạt
cải về đây ta sẽ cứu đứa trẻ sống lại.” Đức Phật còn dặn thêm: “Nhưng cô nhớ xin
cho được hạt cải ở gia đình nào xưa nay chưa có người chết.”
Chiều tối người đàn bà mệt lả ôm con trở lại, Đức Phật còn chờ ở đấy. Người đàn
bà sụt sùi thưa: “Thưa Ngài, con đi khắp xóm làng nhưng không có gia đình nào
xưa nay chưa hề có người chết.” Phật bảo: “Cả thế gian này có cùng nỗi đau như
con.” Ngay sau câu nói đó, người đàn bà đã tỉnh ngộ. Và Ngài đọc Pháp cú:
“Người tâm ý đắm say
Con cái và súc vật
Tử thần bắt người ấy
Như lụt trôi làng ngủ.”
Cuối bài kệ, Kisa Gotami đắc quả Dự lưu. Bà xin gia nhập Tăng đoàn và được Thế
Tôn chấp thuận.
Chúng ta nhớ câu chuyện gã cùng từ trong kinh Pháp hoa và chiếc áo cũ kỹ
mà người cha căn dặn đừng bán. Có một bữa trời xui đất khiến sao đó anh ta bỗng
nhiên táy máy mân mê và khám ra viên ngọc thật quý nằm dấu trong chéo áo rách.
Khi khám ra viên ngọc quý rồi thì đứa con nghèo đói trở nên hết nghèo đói. Cái
chuỗi ngày dài cơ cực bị khinh khi, bị đói khát, bị đau đớn đã là bài học rất
thấm thía, rất giá trị cho người con, và từ đó anh ta biết sử dụng viên ngọc quý
và biết dùng nó làm vốn liếng để gây dựng lại sự nghiệp, đã sống cuộc đời rất
hạnh phúc và tiếp nhận trọn vẹn gia tài bí mật của cha để lại. Gia tài đó là
viên ngọc, nhưng cũng là sự hiểu biết, tinh thần trách nhiệm và cái lề lối sống
để có hạnh phúc. Thiền sư Nhất Hạnh khi giảng về đoạn kinh này đã nói: “Ðó là
một hình ảnh Bụt đưa ra trong kinh Pháp hoa. Bụt có ý nói rằng tất cả
chúng ta đều là những đứa con phá của, những đứa cùng tử. Chúng ta có hạnh phúc,
có gia tài mà chúng ta không biết xài; chúng ta phung phí, chúng ta dày đạp lên
cái hạnh phúc của chúng ta mà đi, và chúng ta trải qua năm này tháng nọ làm một
kẻ tha phương cầu thực, gối đất nằm sương, chịu biết bao nhiêu là khổ nhục.
Chính bây giờ chúng ta phải khám phá lại viên ngọc đã và đang được khâu trong áo
chúng ta.”
- Phương pháp giáo dục từ kinh nghiệm thực tế
Theo TT.Thích Trung Định, “Dù là thuyết giảng, nêu ví dụ hay tranh luận, Đức
Phật đều sử dụng một loạt các phương pháp mang tính kinh nghiệm từ chính tự thân
của Ngài. Có thể nói, trong giáo dục Phật giáo, không một đối tượng nào áp dụng
một phương pháp mà chưa trải qua thể nghiệm. Đức Phật tự thân đã trải qua quá
trình hỏi đạo, biện chiết với các nhà tư tưởng cũng như thực hành các phương
pháp luyện tập của các nhà tu khổ hạnh trước khi quyết tâm thiền định dưới cây
bồ-đề cho đến khi thành chính quả. Bài kinh Tứ niệm xứ được Đức Phật
giảng dạy rất nhiều lần cho hàng đệ tử của Ngài một cách rất chi tiết. Đó chính
là con đường thực nghiệm mà Đức Phật đã trải qua các giai đoạn hành thiền, các
trạng thái dao động của tâm, sự đau nhức của thân, Ngài đều đã kinh qua. Vì vậy,
những bài pháp của Ngài là chính tự Ngài thân chứng, sau đó mới dạy lại cho hàng
đệ tử.”
- Phương pháp giáo dục bằng thân giáo
Nhân cách và hình ảnh tốt đẹp của người thầy là điều không thể thiếu trong
phương pháp giáo dục Phật giáo. Đức Phật không chỉ là một Bậc Đạo sư. Ngài là
một Bậc Đại trí tuệ với lòng từ bi vô lượng. Chính nhân cách đó đã làm cho tất
cả những ai gặp Ngài đều phải tôn kính. Ngày nay, vai trò thân giáo của người
thầy trong Phật giáo cũng rất cần thiết. Chính vì thế nhiệm vụ của chư Tăng là
thể hiện đầy đủ hình ảnh một vị thầy trong lãnh đạo quần chúng tu tập và là
người hướng dẫn tâm linh và đạo đức.
Schumann nhận xét: “Thế đấy, Ngài trở thành một Bậc Đạo sư với những phương
pháp giáo dục hết sức phong phú. Ngoài những bài pháp thoại, những pháp môn điều
phục tâm nhờ đó các đệ tử đạt đến định tĩnh (samadhi), các pháp thiền hướng đến
an tâm hay tịnh chỉ, đoạn trừ dục vọng và dễ tiếp nhận các tuệ quán cao hơn.
Cách phát triển tâm trí theo lối quán sát (vipassana) nhằm tiêu diệt vọng tưởng
và vô minh. Cách này luôn hướng đến một đối tượng: tự thân.”
…Thanh niên Mahali hỏi Đức Phật có phải mục đích an trú trong thiền định mà vị
Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh chăng? Bậc Đạo sư đáp: “Này Mahali, không phải vì
muốn an trú thiền định mà chư Tăng sống đời phạm hạnh, vì muốn chứng đắc các
pháp cao thượng hơn, thù diệu hơn, đó là đoạn tận tham sân si.”
Hãy hướng về Phật đản với tất cả lòng kính ngưỡng về một Bậc Đạo sư vĩ đại.
Nguyên Cẩn
Thích Trung Định, Nêu thêm về phương pháp giảng dạy của Đức Phật,
Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 327.