NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÍN NIỆM VÀ HÌNH TƯỚNG
CỦA BỒ-TÁT PHỔ HIỀN
Bồ-tát Phổ Hiền là đối tượng thờ tự phổ biến ở nhiều quốc gia, mỗi nơi đều
có một hay nhiều tôn danh khác nhau. Nguyên trong Phạn ngữ, Ngài được gọi là
Samantabhadra, Visuabhadra; Nhật: Fugen Bosatsu; Hàn:
Bohyun Bosal/ Pohyon; Tây Tạng: Kun-Tubzang-po; Thái Lan:
Prak-Sả-Măn-Taphach-phô-thi-sạch; Trung Quốc: Puxian, Hán âm: Tam
Muội Đa Bạt Đà La, Tam Mạn Đà Bạt Đà, Bật Thâu Bạt Đà, Tam Mạn Đa Bạt Đà Ni,
Tam Mạn Đa Bạt Đà La, Tam Mạn Đà Bạt Đà La hoặc Tam Mãn Đa Bạt Nại La, Tam
Mạn Đà Đài Đà…[1]
Còn gọi: Biến Cát Bồ-tát. Dịch ý là điều tốt lành, vui vẻ ở khắp mọi nơi, có
hạnh lượng vô hạn, phổ khắp và hiển hiện ở tất cả Bồ-tát cõi Phật, phổ hóa
hiền lương khắp nơi, là một tôn Bồ-tát thường gặp trong Phật giới, vị Bồ-tát
có đầy đủ hạnh nguyện vô lượng, hiển hiện tại tất cả các ngôi chùa Phật.
I. Tín niệm về Bồ-tát Phổ
Hiền
1. Tín niệm phổ quát:
Cả hai truyền thống Nam, Bắc tông Phật giáo đều thờ Phổ Hiền, nhưng ít khi
Ngài được thờ riêng. Một vài phái Mật tông ở vùng Hy Mã Lạp Sơn cho rằng
chính vị Bồ-tát này, chứ không phải Đại Nhật Phật, là đấng sáng lập ra Mật
tông Phật giáo, trong đó tín đồ tìm cách hội thông và hợp nhất với thần linh.
Ở Trung Quốc, Bồ-tát Phổ Hiền hầu như luôn được thờ chung với Phật Thích Ca
và Bồ-tát Văn Thù, và được tin là Ngài đã cỡi voi trắng từ Ấn Độ sang Trung
Quốc, ngự ở núi Nga My, tỉnh Tứ Xuyên.
Bồ-tát Phổ Hiền là một vị thần trung tâm của kinh Hoa nghiêm và cũng
xuất hiện trong kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh quan trọng
nhất của Phật giáo Đại thừa khắp châu Á.
Bồ-tát Phổ Hiền có lẽ đã đến Nhật Bản vào khoảng thế kỷ VIII hoặc IX, vì
Ngài đã là một vị thần chính trong nửa cuối của thời kỳ Heian (794-1192 sau
TL). Theo một nguồn dữ liệu: “Vào thời Heian, những phụ nữ trong triều
đình Nhật Bản đã chấp nhận một hình thức của Phật giáo dựa trên việc tôn thờ
kinh Pháp hoa và Bồ-tát Phổ Hiền. Kinh Pháp hoa là văn bản chính của Phật
giáo liên quan đến việc cứu độ phụ nữ, và Phổ Hiền là vị Bồ-tát bảo hộ của
các tín đồ của kinh Pháp hoa. Vì vậy, các phụ nữ thời đó đã nhận Bồ-tát Phổ
Hiền là người bảo trợ cho họ”.
Thật vậy, trong chương thứ 12 (Devadatta) của kinh Pháp hoa,
người con gái của Long Vương là Long Nữ/Sagara đạt được giác ngộ khi
mới tám tuổi, biểu thị cho khả năng thành Phật phổ quát cho cả nam và nữ. Ở
Nhật Bản, Phổ Hiền cũng là một trong mười ba vị thần, người chủ trì lễ tưởng
niệm được tổ chức vào ngày thứ 28 sau khi một người qua đời. [2]
Vị Bồ-tát này chủ yếu được Thiên Thai tông, Chân Ngôn tông và Nhật Liên tông
thờ phụng. Ngài được đặc biệt tôn sùng bởi các môn đồ thực hành việc quán
niệm kinh Pháp hoa, vì với họ, Phổ Hiền tiêu biểu cho lý thuyết và
thực hành quán niệm.
Bên cạnh đó, Ngài là vị đầu tiên trong Ngũ Thiền Bồ-tát, tương ứng với Ngũ
Thiền Phật của Bắc tông. Ở Tây Tạng, có thời gian người ta thờ Ngài như là
Nhiên Đăng Cổ Phật (Adi Buddha), nhưng hiện nay chỉ còn những tín đồ
của tông Ninh Mã (Nyingma) giữ tín ngưỡng đó.
Theo kinh Pháp hoa, Ngài là vị Bồ-tát ở quốc độ của Phật Bảo Oai Đức
Thượng Vương Như Lai, phía Đông cõi Ta-bà, nghe thế giới này thuyết kinh
Pháp hoa liền lãnh đạo năm trăm vị đại Bồ-tát đến nghe pháp và phát tâm
hộ trì Chánh pháp của Đức Phật Thích Ca.
Phổ Hiền Bồ-tát là đại diện cho Phật giáo Đại thừa. Danh hiệu của Ngài bắt
nguồn từ Tam Mạn Đà La Bồ-tát kinh, sau này được thấy trong rất nhiều
kinh Phật. Ví như trong Đại Nhật kinh sớ có nói, “phổ” có
nghĩa là phổ biến, trải khắp mọi nơi, “hiền” có nghĩa là thuần nhất
thiện khéo, diệu thiện tài giỏi nhất. Phổ Hiền Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, nguyện
hạnh của Ngài phổ biến khắp thân, khẩu, ý, có đủ các loại công đức, đại diện
cho tất cả các việc làm đại từ đại bi của Bồ-tát. Ở đây có ý nói tất cả
những biểu hiện về Hạnh nguyện, Thân hình, Khẩu thuyết, Ý niệm… của Phổ Hiền
Bồ-tát đều đã đạt đến cảnh giới toàn diện nhất, tốt nhất, có đủ muôn đức
tốt, là điển hình mô phạm của Phật pháp thực tiễn cho nên gọi là “Đại Hạnh
Phổ Hiền”
[3].
Cuốn Đệ nhị Bồ-tát kinh tích nói rằng: “Bồ-tát Phổ Hiền chứng hết
mọi pháp giới lậu thành chính giá. Để trợ giúp cho Phật Thích Ca phổ độ
chúng sinh, Ngài giấu hết mọi tung tích hiện lên tướng Bồ-tát. Công đức của
Ngài vô lượng vô biên, không thể bàn hết được, ngày nay rút gọn còn hai chữ
“Phổ Hiền”, để nói rõ khí phách của Ngài”
[4]. Vị Bồ-tát này, từ tên gọi cho đến công năng đều thể
hiện sự từ bi hết mức cho hạnh nguyện của Ngài. Đây là vị Bồ-tát với thiện
tâm vô sở bất tại: Ngài tiêu biểu cho Phật pháp và Từ bi tâm.
Trong kinh
Diệu pháp liên hoa,
Bồ-tát Phổ Hiền được mô tả trong phần kết, được gọi là kinh Quán Phổ Hiền,
với những chi tiết đặc biệt về sự quán tưởng của Bồ-tát và đức hạnh của lòng
sùng kính đối với Ngài. [5]
2. Vị Phật nguyên
thủy:
Điều
rất phổ biến là vị Bồ-tát của truyền thống Đại thừa mang tên Phổ Hiền được
cố kết thành một vị Phật cùng tên hiện diện như vị Phật nguyên thủy, trong
một số truyền thống Tây Tạng. Điều này xuất phát từ thực tế là cả hai đều có
cùng tên gọi nhưng ý nghĩa của hai đối tượng thờ tự này trong những truyền
thống tương ứng rất khác biệt. Đây không phải là trường hợp vị Bồ-tát của
Đại thừa đã phát triển hay biến đổi khi hòa nhập vào truyền thống Tây Tạng
bởi trong truyền thống đó, Bồ-tát Phổ Hiền hiện diện và Phổ Hiền Pháp thân
(Samantabhadra Dharmakaya) cũng là hai thực thể riêng rẽ và khác biệt.
Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là trường phái Ninh Mã, Phổ
Hiền Pháp thân (không phải là vị Bồ-tát của Đại thừa) được coi là Đức Phật
nguyên thủy/A-đề Phật. Phổ Hiền xuất
hiện trong kinh Kunjed Gyalpo Tantra của Mật tông Kim Cương thừa,
như Đức Phật nguyên thủy, các “hiện thân” (Phạn: kaya) hoặc “lĩnh
vực/phạm vi” (Phạn: ksetra) của “nhận thức, sự ngộ đạo vượt thời
gian” (Phạn: jñāna) đánh thức từ trước khi bắt đầu. Do đó, trong Phật
giáo Tây Tạng, Ninh Mã phái, các trường phái Sakya và Bön giáo xem Phổ Hiền
là Đức Phật nguyên thủy.
Trong Kim Cương thừa, tên Phổ Hiền được sử
dụng chỉ Bản Sơ Phật (Phạn: Ādi Buddha), hiện thân của Pháp
thân (Phạn: dharmakāya). Phổ Hiền này (không phải vị Đại Bồ-tát) được
vẽ với màu xanh đậm, tượng trung cho Tính không. Tranh tượng cũng vẽ Phổ
Hiền hợp nhất với nữ thần sắc trắng, tượng trưng cho sự nhất thể. Trong
phép Đại thủ ấn (Phạn: mahāmudrā), thân của Phổ Hiền là Báo
thân (Phạn: saṃbhogakāya)
và đóng một vai trò trung tâm.
Trong trường phái Ninh Mã của Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng, Phổ Hiền
được coi là một vị Phật nguyên thủy trong hợp nhất yab-yum không thể chia
tách với người phối ngẫu Samantabhadra/
Samantabhadrī.
II. Công đức
Pháp môn Bồ-tát Phổ Hiền, ứng theo căn cơ chúng sinh mà thuyết pháp, đó cũng
là duyên khởi nhân phần trong giáo nghĩa Hoa nghiêm. Ngược lại, cảnh
giới Phật đoạn tuyệt tất cả ngôn ngữ suy nghĩ là Tánh hải quả phần, tức pháp
môn Tỳ Lô Giá Na Phật.
Bồ-tát Phổ Hiền về mặt nhân cách là Bồ-tát Đẳng giác. Theo lý thì vị Bồ-tát
này tượng trưng cho lý, định, hạnh, là cội nguồn của chư Phật, cũng là thể
tánh của tất cả các pháp; nếu nhập vào quả vị gọi là Tánh hải; nên tất cả
pháp Tín, Giải, Hạnh, Chứng, chẳng kể phàm thánh, đều gọi là Phổ Hiền. Thể
ngộ cảnh giới đại cơ của nhất thừa Phổ Hiền này, gọi là cảnh giới Phổ Hiền.
Hoa nghiêm khổng mục
chương 4 nêu ra 2 loại: Tam thừa Phổ Hiền và Nhất thừa Phổ Hiền, mỗi loại
lại có 3 lớp Nhân, Giải, Hạnh nên gọi là Lục chủng Phổ Hiền.
Trong Tam thừa Phổ Hiền, Nhân là Bồ-tát Phổ Hiền, Giải là giải ngộ được lý
Hội tam quy nhất… thú hướng Nhất thừa, Hạnh là hạnh Phổ Hiền, tất cả đều
được nói trong phẩm Phổ Hiền, kinh Pháp hoa.
Trong Nhất thừa Phổ Hiền, Nhân là Bồ-tát Phổ Hiền nói trong phẩm
Nhập pháp giới, Giải là Phổ biến và Thâm nhập nói trong 60 hạnh môn
thuộc phẩm Phổ Hiền, là cảnh giới hỗ tương dung nhiếp bất khả tư nghì; Hạnh
là chỉ 10 tâm Phổ Hiền và 10 hạnh nguyện Phổ Hiền trong phẩm Ly thế gian,
kinh Hoa nghiêm. Hạnh nguyện Phổ Hiền chỉ cho 10 đại nguyện:
1.
Lễ kính chư Phật: Thường lễ kính tất cả Phật.
2.
Xưng tán Như Lai: Thường xưng tụng công đức của Như Lai.
3.
Quảng tu cúng dường: Thường thờ phụng và cúng dường tất cả Phật.
4.
Sám hối nghiệp chướng: Thường sám hối các nghiệp từ vô thủy đến nay và tuân
giữ tịnh giới.
5.
Tùy hỷ công đức: Thường tùy hỷ công đức của tất cả Phật, Bồ-tát cho đến 6
loài, 4 sanh…
6.
Thỉnh chuyển pháp luân: Thường lễ thỉnh tất cả Phật giảng nói giáo pháp.
7.
Thỉnh Phật trụ thế: Thỉnh cầu Phật, Bồ-tát chớ nhập Niết-bàn, mà trụ ở thế
gian để nói pháp.
8.
Thường tùy Phật học: Thường theo Phật Tỳ Lô Giá Na mà học giáo pháp.
9.
Hằng thuận chúng sinh: Ứng theo sự khác biệt của các loài chúng sinh mà làm
các việc cúng dường.
10.
Phổ giai hồi hướng: Hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh, để nguyện
thành tựu quả Phật.
Mười lời thề nguyện đã trở thành một thực hành phổ biến trong Phật giáo Đông
Á, đặc biệt là lời thề thứ mười, với nhiều Phật tử là truyền thống cống hiến
công đức và những việc làm tốt cho tất cả chúng sinh trong các nghi lễ Phật
giáo.
Nếu tinh tấn thực hành 10 hạnh nguyện trên không gián đoạn, thì có thể hoàn
thành các hạnh nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền. Nếu người nào có lòng tin sâu
xa mà thọ trì các đại nguyện, hoặc đọc tụng, biên chép, cũng có thể đạt được
các công đức
[6].
Tất cả những điều này, đều như lời Phổ Hiền Bồ-tát từng nói: “Phổ nguyện
trầm nịch chư chúng sinh, tốc vãng vô lương quang Phật sát” (nghĩa là:
Nguyện khắp các chúng sinh còn trầm mê u tối, nhanh chóng đi về nơi Vô Lượng
Quang Phật [tức Phật A Di Đà]).
Mười đại hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát đã đại biểu cho hạnh nguyện của tất
cả các Bồ-tát, cho nên Mười đại hạnh nguyện còn được gọi là Phổ Hiền
nguyện hải (Biển nguyện của Phổ Hiền). Vì Ngài có hạnh nguyện rộng lớn,
nên còn được tôn xưng Bồ-tát Đại Hạnh Phổ Hiền. Phổ Hiền là chủ nguyện của
10 đại nguyện, nên Ngài phối với tâm Bồ-đề và được coi là cùng thể với Kim
Cương Tát Đỏa, vì thế cũng được liệt vào trong 2 bộ Kim, Thai mạn-đà-la.
Bất kỳ một chúng sinh nào thực hiện Bồ-tát hạnh viên mãn thì chúng sinh ấy
cũng chính là Bồ-tát Phổ Hiền, quả vị của viên mãn Phổ Hiền chính là Tỳ Lô
Giá Na Như Lai, vì thế chúng sinh có Phổ Hiền viên mãn thì cũng là tính Phật
Tỳ Lô Giá Na.
Thai tông nhị bách đề 10,
lập Hữu tướng Phổ Hiền luận đề, cho rằng nếu y theo các hạnh hữu tướng: lễ
sám, tụng kinh… thì sẽ cảm ứng thấy Ngài Phổ Hiền.
Theo kinh Hoa nghiêm,
đặc biệt là chương cuối, Gaṇḍavyūha-sūtra,
có đề cập Thiện Tài đồng tử phát đại tâm, nhất tâm cầu Bồ-tát đạo, về sau
được Văn Thù Bồ-tát khải thị, đi về phía Nam tham vấn Đại thiện tri thức.
Sau cùng đến nơi của Phổ Hiền Bồ-tát, Phổ Hiền
Bồ-tát
dạy cho Thiện Tài rằng trí tuệ
chỉ tốt đẹp khi nó có lợi ích cho tất cả chúng sinh và
giảng dạy phương pháp “Lễ kính chư Phật”, “Quảng tu cung dưỡng”, “Sám hối
nghiệp chướng”, “Thường tùy Phật học” gồm 10 đại hạnh nguyện; do đó Phổ Hiền
lại còn được gọi là “Thập đại nguyện chủ” (hoặc Thập đại nguyện vương)[7].
Theo Mật tông, Phổ Hiền Bồ-tát có mật hiệu là Chân Như Kim Cương/Phổ
Nhiếp Kim Cương. Phổ Hiền Bồ-tát đại diện cho tất cả Bồ-tát hạnh, có
những công đức như kéo dài tuổi thọ, tăng thêm trí tuệ, phá tai diệt tội.
Trong Phật giáo Tây Tạng, Ngài là chủ tôn duy nhất tiêu nghiệp diệt tội.
Hành giả tu Bản tôn pháp của Ngài có thể giành được lợi ích tiêu nghiệp diệt
tội một cách nhanh chóng nhất, thành tựu Bồ-đề vô thượng.
Mật tông coi Phổ Hiền Bồ-tát đại diện cho tâm Bồ-đề, coi Ngài và Kim Cương
Thủ Bồ-tát, Kim Cương Tát Đỏa, Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Bồ-tát là một[8].
Bồ-tát Phổ Hiền được xếp vào mạn-đà-la của 2 bộ Kim cang và Thai tạng. Ngài
là 1 trong 16 tôn vị thuộc Hiền kiếp được tôn trí ở phương Bắc trong
mạn-đà-la Kim cang giới.
Theo Diệu pháp liên hoa kinh - Phổ Hiền khuyến phát phẩm, sau khi
Phật nhập diệt, nếu có người tin thờ, tụng niệm kinh Pháp hoa thì Phổ
Hiền Bồ-tát cùng chư Đại Bồ-tát sẽ xuất hiện trước mặt người ấy bảo hộ họ,
khiến cho thân tâm an ổn, không bị phiền não ma chướng quấy nhiễu[9].
III. Hình tướng Bồ-tát
Phổ Hiền
Hình tướng của Bồ-tát Phổ Hiền rất đa dạng, tùy theo từng nơi và từng tông
phái.
1.
Phổ Hiền
cưỡi voi
Trong hình tướng cưỡi voi, Phổ Hiền Bồ-tát thường được thể hiện với thân màu
vàng kim, trên đầu đội mũ Ngũ Phật, vẻ mặt yên bình, khoác áo cà-sa, tay
phải cầm bảo bối như ý hay hoa sen, ngồi kiết già trên đài sen đặt bên trên
lưng voi trắng sáu ngà, vòi to cong rũ xuống đất, bốn chân của voi đứng trên
bốn bông hoa sen; hay tay trái cầm kinh Phật, tay phải kết ấn Thí nguyện/Thí
vô úy, có tư thế ngồi du hý trên voi trắng sáu ngà; hoặc tùy khí của Ngài
chính là viên bảo châu mà Ngài thường cầm nơi tay trái hoặc tay phải cầm hoa
sen, trên hoa là viên bảo châu. Trong nhiều biểu thị, một trong hai bàn tay
Ngài bắt ấn giáo hóa, với ngón cái và ngón trỏ chạm nhau thành hình tam
giác. Trong những dạng khác, Ngài cầm cuộn kinh hay một kim cương chử nơi
tay trái[10].
Con vật mà Phổ Hiền cưỡi, voi trắng có sáu ngà, hoàn toàn không giống với
những con voi trong tự nhiên, đó cũng là một dạng tượng trưng. Kinh Quán
Phổ Hiền Bồ-tát hành pháp có nói: Phổ Hiền Bồ-tát “dùng trí lực giáo hóa
con voi trắng để cưỡi, con voi đó có sáu ngà”[11].
Ngoài ra, con voi trắng 6 ngà trong Phật giáo nguyên là Bồ-tát hóa nên để
biểu thị uy linh. Kinh Phổ diệu nói rằng: “Từ trên trời Đâu Suất,
Bồ-tát liền thả uy linh xuống, hóa thành con voi trắng, miệng có 6 ngà”.
Con voi trắng 6 ngà mà Ngài Phổ Hiền đã từng cưỡi là để biểu hiện lòng đại
từ[12].
Voi là một loại động vật lớn, có sức mạnh vô địch, đi lại vững vàng mạnh mẽ,
tính tình ôn hòa cho nên trong Phật giáo, voi biểu thị sự uy nghi của Phật,
biểu thị tâm Bồ-tát vốn là thiện lương nhu hòa nhưng cũng có sức mạnh rất
lớn. Phổ Hiền Bồ-tát cưỡi voi là bởi vì “Phổ Hiền chi học đắc vu hạnh,
hạnh chi cẩn thẩm tĩnh trọng mạc nhược tượng, cố hiếu tương”. (Cái học
của Phổ Hiền tâm đắc ở chỗ hạnh nguyện, mà cái tính cẩn trọng an tĩnh không
gì bằng voi, cho nên thích voi).
Con voi trắng có sáu ngà. Quyển 2 bộ Ma-ha chỉ quán có nói: Voi trắng
sáu ngà biểu thị Bồ-tát không để sót sáu phép thần thông. Voi có sức mạnh
rất lớn, biểu thị pháp thân Bồ-tát có thể kham được những việc nặng nề; vì
không có phiền não, nhiễm tạp cho nên là màu trắng. Cũng có thể nói sáu
chiếc ngà của con voi trắng biểu thị Lục độ, bốn chân biểu thị Tứ như ý túc.
Phổ Hiền Bồ-tát cưỡi voi trắng sáu ngà là để ví với đại lực từ bi của Ngài[13].
Một số người tin rằng con voi trắng của Bồ-tát Phổ Hiền cũng là con voi đã
xuất hiện trong giấc mơ của hoàng hậu Maya, mẹ của Đức Phật, để báo điềm sự
ra đời của Đức Phật.
Bên cạnh đó, quyển 2 của Thử quán nói rằng con voi trắng 6 ngà, đó
chính là 6 thần thông vô lậu của Bồ-tát. Ngà voi nhanh và mạnh như thần
thông, voi có sức mạnh, biểu hiện tự gánh vác pháp thân, vô lậu vô nhiễm nên
là trắng[14].
Theo Đại trí độ luận thì Bồ-tát có thể đạt được Ngũ thông, Phật có
thể đạt được Lục thông. Phổ Hiền cưỡi trên voi trắng sáu ngà biểu thị Ngài
đã đạt đến cảnh giới của Phật[15].
Kinh Phổ Hiền quán nói rằng: “Sáu ngà voi biểu hiện Lục độ (còn
gọi là “Lục ba-la-mật, tức là 6 phương pháp đến bờ bên kia để giải
thoát luân hồi sinh tử, gồm có: 1- bố thí; 2- trì giới; 3- nhẫn nhục; 4-
tinh tấn; 5- thiền định; 6- trí tuệ). Bốn chân voi biểu hiện cho bốn điều
như ý (tức là bốn dạng thiền định, gồm có: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền,
tứ thiền)”[16].
“Tứ như ý” tức là “Tứ như ý túc”, cũng gọi là “Tứ thần túc”. Ý nghĩa của
“Như ý túc” là dựa vào sức mạnh của Lục thần thông đạt được để tạo nên cơ sở
hoặc chỗ nương tựa. “Tứ như ý túc” là có thể đạt đến trạng thái Thiền định
thần thông, tức là 1. Dục như ý túc, 2. Niệm như ý túc, 3. Tinh tiến như ý
túc, 4. Huệ như ý túc. Phật giáo cho rằng tu hành những loại thiền định này
có thể có được năng lực tự tại như ý, đủ loại biến hóa thần thông.
Một dạng hình tượng khác của Phổ Hiền Bồ-tát là ngồi kiết già trên đài sen
được đặt ở trên lưng con voi trắng, hai bàn tay để trước ngực tạo thành Liên
hoa hợp chưởng ấn (bốn ngón của hai bàn tay cùng với lòng bàn tay hơi cong
khum lại, hai ngón tay cái tách rời nhau, giống như kiểu hai bàn tay đang
khum lại để múc nước. Tức là hai tay đang tưới nước đại bi đại trí, bố thí
cho tất cả chúng sinh)
[17].
2.
Phổ Hiền
diên mệnh Bồ-tát
[18]
Ngoài ra, Phổ Hiền Bồ-tát có đức kéo dài tuổi thọ, do đó mà xuất hiện hình
tượng “Phổ Hiền diên mệnh Bồ-tát” để cầu sống lâu. Theo Phổ Hiền Diên
Mệnh kinh kỳ thì Phổ Hiền có diện mạo đồng tử, tròn như mặt trăng đầy,
đầu đội Ngũ Phật kim quan, tay phải cầm chày kim cang, tay trái cầm kim cang
lệnh, ngồi trên thiên diệp bảo hoa (hoa báu ngàn cánh), đặt trên lưng một
voi trắng ba đầu, chân voi đạp lên một bánh xe kim cang lớn (kim cang
luân), dưới có bầy voi năm ngàn con, thân vàng phóng sắc báu.
Riêng ở Nhật Bản, Phổ Hiền Diên Mệnh Bồ-tát được thể hiện trong hai hình
tướng chính: ngồi trên một cái đôn vuông, với hai mươi/ba mươi cánh tay,
hoặc ngồi trên voi trắng bốn đầu hoặc trên bốn voi trắng.
Thiên Thai tông thờ phụng một dạng biến thể, Phổ Hiền Diên Mệnh Bồ-tát,
trong một lễ nghi đặc biệt để trường thọ được gọi là Phổ Hiền Diên Mệnh
pháp. Trong vai trò này, Phổ Hiền có thể xuất hiện dưới hai hình thức khác
nhau - như một vị thần hai tay cầm một kim cương chử năm ngạnh ở tay phải và
một chiếc chuông ở bên trái khi ngồi trên tòa sen được đỡ bởi ba con voi
(hoặc bởi một con voi ba đầu); hoặc như một vị thần 20 tay ngồi trên đài
sen, đôi khi được hỗ trợ bởi bốn con voi. Dạng thứ hai này xuất hiện trong
phần Biến tri viện/Henchi-in của mạn-đà-la Thai tạng giới.
Khi được biểu thị như một thiếu nhi (Nhi Phổ Hiền - Chigo Fugen) với
một mũ miện cao, trang hoàng với hình tượng năm vị Ngũ Thiền Phật/Ngũ Trí
Như Lai/Jinas, Ngài được coi là chí tôn. Ngài ngự trên một đóa sen, trên
lưng con voi sáu ngà. Hoặc đứng trên hai đóa sen (mỗi chân trên một đóa),
tay phải bắt Vô úy ấn, lòng bàn tay trái hướng xuống đất, các ngón tay hơi
cong lại. Trong tư thế đứng này, khi họp thành nhóm tám Bồ-tát, Ngài có màu
vàng và cầm một hoa sen trong tay phải và một kim cương chử trong tay trái.
Trong kinh Liên hoa, Ngài có 10 nữ đệ tử hộ vệ, vốn là 10 nữ dạ-xoa (rakshasi)
vốn thích ăn thịt đàn ông, được ngài cảm hóa quy y Phật Pháp. Những đệ tử
đặc biệt này ít khi được biểu thị ngoại trừ trên các mạn-đà-la.
Ở Trung Quốc, hiếm khi Ngài được biểu thị riêng biệt, mà thường hợp thành bộ
Thích Ca Tam Tôn. Trước đời Đường, Ngài Phổ Hiền phần lớn là thể hiện “người
nam tướng nữ”, từ sau đời Tống, Ngài thường thể hiện là “nữ thân nữ tướng”.
Ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Java, trong các tháp mạn-đà-la của Borobudur,
Phổ Hiền có lẽ được biểu thị ở trên đỉnh của hàng lan can thứ năm. Tất cả 64
tượng của Ngài nhìn về các hướng chân trời. Tay phải Ngài bắt giáo hóa ấn,
còn tay trái để trong lòng. Vị Bồ-tát này được biểu thị như một Jina nhưng
các vật trang trí có lẽ đã được vẽ trước đó trên đá. Ngài biểu thị vị Bồ-tát
đang trao truyền trí huệ tối thượng cho hành giả đã tiến lên năm bước trí
tuệ (Pancajnana: ngũ trí), giúp họ nhìn thấy những hình tượng của
Vairocana (Đại Nhật Phật) nửa ẩn nửa hiện trong các bảo tháp mở nơi ba tầng
cuối cùng của Vô sắc giới (Arupad-hatu).
3.
Phổ Hiền
trong mạn-đà-la
Trong Mật giáo, các loại hình tượng Phổ Hiền không giống nhau. Ngài được thể
hiện bằng màu xanh lục hay màu vàng. Trong Kim cang giới mạn-đà-la đại
sao có nói “Phổ Hiền Bồ-tát tay trái nắm lại, tay phải cầm sen, trên
có kiếm, mật hiệu là Chân Như Kim Cang”. Thai tạng giới mạn-đà-la đại
sao nói: “Phổ Hiền đầu đội ngũ Phật kim quan, tay trái cầm sen, trên
có kiếm, tay phải duỗi thẳng đứng”.[19]
Trong mạn-đà-la Kim cương giới, Phổ Hiền Bồ-tát là một trong 16 vị hiền
kiếp, nằm ở vị trí thấp nhất trong bốn vị Bồ-tát ở hướng Bắc, mật hiệu là
Phổ Nhiếp Kim Cương, hình tam muội da là thanh kiếm. Hình tượng của Ngài thì
tùy theo mỗi hội mà có sự sai khác: trong bức vẽ chi tiết, hội Vi tế, nắm
tay trái đặt ở vị trí thắt lưng, tay phải cầm cây kiếm sắc bén[20].
Hình ảnh trong hội Cúng dường là hai tay cầm hoa sen, giơ lên trước ngực,
trên hoa sen có thanh kiếm. Hình tượng trong hội Hàng tam thế yết ma và hình
tượng trong hội Cung kiếm về cơ bản là giống nhau, chỉ là xung quanh thanh
kiếm có nhiều tia lửa.
Trong mạn-đà-la Thai tạng giới, Phổ Hiền Bồ-tát được liệt vào trong viện
Trung đài bát diệp và viện Văn Thù. Trong viện Trung đài bát diệp, vị trí
của Ngài ở trên hoa sen phía Đông nam, thân màu trắng hay hồng nhạt, đội mũ
Ngũ Phật, tay trái dùng ngón cái và ngón trỏ cầm hoa sen, trên hoa sen có
ngọn lửa bao quanh thanh kiếm, tay phải duỗi ra, ngửa lòng bàn tay, gập ngón
áp út và ngón út, hình tam muội da là thanh kiếm trên hoa sen, mật hiệu là
Chân Như Kim Cương.
Trong viện Văn Thù, Phổ Hiền Bồ-tát ở vị trí sau phía bên phải của Văn Thù,
tay trái cầm hoa sen xanh, bên trên có chùy ba nhánh; tay phải duỗi thẳng
năm ngón tay, lòng bàn tay hướng ra ngoài, đầu ngón tay cái chạm vào đầu
ngón trỏ và ngón giữa, ngón áp út duỗi ra, ngón út ở trước ngực. Hình tam
muội da là chùy ba nhánh trên hoa sen, mật hiệu là Chân Như Kim Cương[21].
Trong Thai tạng giới mạn-đà-la, Ngài được đặt ở hướng Đông nam của Đại Nhật
Như Lai (Vairocana) và biểu thị nguyên nhân của lối sống khổ hạnh mà
Bảo Tàng Như Lai (Ratnaketu) biểu thị hậu quả. Nên Ngài là tinh thần của
Bồ-đề tâm và là nguyên nhân ưu việt của “Đại viên kính trí” (Adarsajnana).
Trong Kim cương giới mạn-đà-la, Ngài được biểu thị với một thanh kiếm còn
nằm trong bao và một kim cương chử ba mũi[22].
Trong những ảnh tượng của tông Ninh Mã Tây Tạng, Phổ Hiền được miêu tả trong
tư thế yab-yum ở trung tâm của mạn-đà-la Shi-tro. Tuy nhiên có khi vị Bồ-tát
này cũng được biểu thị trong hình tướng phẫn nộ được gọi là Chemchok
Heruka. Trong hình tướng này, Ngài là một vị thần có cánh với thân màu
nâu đỏ sẫm, có ba mặt, sáu tay và bốn chân; thường được miêu tả trong tư thế
ôm ghì lấy người phối ngẫu màu đỏ tươi.
4.
Phổ Hiền -
Văn Thù
Phổ Hiền thường xuất hiện trong bộ ba cùng với Phật Thích Ca và Văn Thù, gọi
là Thích Ca Tam Tôn. Ngài đứng bên phải còn Văn Thù đứng bên trái, và có khi
họ được vây quanh bởi mười sáu thiên thần bảo vệ cho kinh Bát-nhã.
Bồ-tát Phổ Hiền biểu thị Lý, Định, Hạnh, cùng nói lên sự viên mãn về lý trí,
định huệ, hạnh chứng của Như Lai. Bồ-tát Phổ Hiền đại diện cho lý đức và
định đức của tất cả chư Phật, sánh ngang với trí tuệ, chứng đức của Bồ-tát
Văn Thù, hay Văn Thù Bồ-tát tượng trưng cho trí
tuệ, Phổ Hiền Bồ-tát tượng trưng cho chân lý; hai vị Bồ-tát này cùng thị giả
bên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài Văn Thù và Phổ Hiền là thượng thủ của tất
cả Bồ-tát, thường giúp Phật tuyên dương giáo pháp để thành tựu việc lợi ích
chúng sinh. Bồ-tát Văn Thù cưỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi voi, thể hiện lý
trí ngang bằng, chứng ngộ tương ưng. Bồ-tát Phổ Hiền cũng là một trong bốn
Đại Bồ-tát của Phật giáo Đại thừa.
Trong kinh Hoa nghiêm, tất cả Phật pháp đều quy thuộc về Tỳ Lô Giá Na
Như Lai và hai vị Đại sư là Bồ-tát Văn Thù và Bồ-tát Phổ Hiền. Ba vị này
được gọi là Hoa nghiêm tam thánh, trong đó Bồ-tát Phổ Hiền đại diện cho đức
hạnh chính của tất cả Bồ-tát[23].
Hai vị Bồ-tát Phổ Hiền, Văn Thù là chủ quản 2 pháp môn, Bồ-tát Phổ Hiền chủ
về Tam muội, Bồ-tát Văn Thù chủ về Bát-nhã. Hai vị trợ giúp Đức Phật giáo
hóa, vì đối lại với Văn Thù Bát-nhã mà gọi là Phổ Hiền Tam muội.
Hoa nghiêm kinh thám huyền ký 18
(Đại 35, 441 hạ)
ghi: “Phổ Hiền tam muội tự tại, Văn Thù bát-nhã tự tại”[24].
IV. Thân thế
[25]
Về thân thế Bồ-tát Phổ Hiền, có nhiều thuyết khác nhau.
1.
Phổ Hiền là con của chư Phật
Kinh Hoa nghiêm nói rằng: “Nhất Thiết Như Lai đều có con trưởng, tên
của vị đó là Phổ Hiền”. Ở đây, Phổ Hiền là con của chư Phật.
2.
Người con trai thứ tám của Phật A Di Đà
Bên cạnh đó, Đệ nhị Bồ-tát kinh tích và kinh Bi hoa đều nói
rằng Phổ Hiền là con trai thứ tám của Phật A Di Đà.
“Có một vị Thánh Vương chuyển luân tên là Vô Tránh Niệm (tức Phật A Di Đà,
Ngài vốn có tên là Vô Tránh Niệm). Thánh Vương có 1.000 con trai, người con
trai lớn tên là Bất Diến, tức là Bồ-tát Quan Thế Âm; người con trai thứ hai
tên là Ni Ma, tức Bồ-tát Đại Thế Chí; người con trai thứ ba tên là Tượng
Vương, tức Bồ-tát Văn Thù; người con trai thứ tám tên là Mẫn Đồ, tức là
Bồ-tát Phổ Hiền”.
Còn trong kinh Bi hoa chép rằng Phổ Hiền Bồ-tát là con thứ tám của A
Di Đà Phật. Khi chưa chứng ngộ, Ngài có tên là Mẫn Đồ. Ngài đã phát nguyện
trước Phật Bảo Tạng rằng Ngài muốn ở trong quốc độ không thanh tịnh như thế
giới Ta-bà, tu Bồ-đề hành để cứu độ chúng sinh, trị lý trang nghiêm một vạn
thế giới không thanh tịnh, khiến cho chúng trở nên trang nghiêm thanh tịnh
như “thế giới ánh sáng không bụi bẩn ngát hương thơm”. Đồng thời còn giáo
hóa vô lượng Bồ-tát, khiến tâm địa của họ thanh tịnh, đều có thể hướng về
Phật pháp Đại thừa, khiến họ tràn đầy những thế giới đã được hóa độ. Phật
Bảo Tạng do đó đổi danh hiệu cho Ngài là “Phổ Hiền”, đồng thời thụ ký trong
tương lai viên mãn thành tựu vô thượng chính đẳng chính giác tại thế giới
“Trí Thủy Thiện Tịnh Công Đức” ở phương Bắc, Phật hiệu là “Trí Cương Hống Tự
Tại Tướng Vương Như Lai”.
Phổ Hiền Bồ-tát đã tự thuật rằng, Ngài từng cùng với vô số Như Lai là pháp
vương tử. Chư Phật mười phương đều coi Phổ Hiền là tấm gương, dạy các Bồ-tát
tu Bồ-đề hành, đề xướng tu hành cảnh giới viên giác thanh tịnh. Căn cứ theo
những ghi chép trong Đại phương quảng viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh,
trong pháp hội Linh Sơn, Phổ Hiền Bồ-tát cùng với các vị Đại Bồ-tát trong
hội đưa ra bốn câu hỏi cho Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Thích Ca lần lượt trả
lời, đoạn đối thoại giữa hai Ngài đã trở thành kinh điển cho đệ tử Phật học
tập nghiên cứu trong hàng nghìn năm nay.
Ngoài ra, Phổ Hiền không chỉ là Thập Đại Nguyện Vương. Trong kinh Pháp
hoa, phẩm Thập nhẫn, còn đề cập đến “Thập nhẫn” (mười điều nhẫn) dành
cho người tu hành: (1) Âm thanh nhẫn: Tất cả giáo pháp mà Bồ-tát nói với
Phật, không kinh động, không sợ hãi, không lo ngại, cần tin tưởng lĩnh ngộ,
yêu mến đi theo, chuyên tâm ức niệm, tu tập an trụ. (2) Thuận nhẫn: Bồ-tát
có thể quan sát tư duy các pháp, bình đẳng không làm trái, thuận theo và
hiểu rõ, khiến tâm thanh tịnh, chính trụ tu tập, đi đến thành tựu. (3) Vô
sinh pháp nhẫn: Bồ-tát coi các pháp là vô sinh vô diệt. (4) Như hoan nhẫn:
Bồ-tát biết rõ tất cả các pháp, hiểu rõ mọi thứ như giấc mộng, từ nhân duyên
sinh ra. (5) Như diệm nhẫn: Bồ-tát biết tất cả thế gian như ánh lửa mặt
trời. (6) Như mộng nhẫn: Bồ-tát biết rõ thế gian như mộng. (7) Như hưởng
nhẫn: Bồ-tát quán âm thanh của Như Lai thuyết pháp, hiểu rõ và hòa cùng âm
thanh. (8) Như ảnh nhẫn: Bồ-tát không sinh ra ở thế gian, không diệt ở thế
gian; không phải là thế gian, không phải xuất thế gian; không tu Bồ-tát
hạnh, không bỏ đại nguyện; tuy thực hiện tất cả Phật pháp nhưng có thể thực
hiện tất cả sự việc thế gian; không thuận theo dòng chảy của thế gian, cũng
không ở dòng chảy của pháp. (9) Như hóa nhẫn: Bồ-tát quán pháp thế gian và
xuất thế gian, tất cả như hóa. (10) Không nhẫn: Bồ-tát biết rõ tất cả pháp
giới, tất cả thế gian giới.
3.
Người con
thứ hai của Diệu Trang Vương
Ngoài ra, kinh văn Phật giáo cũng có nói rằng Ngài là con thứ
hai của Diệu Trang Vương: “Diệu Trang Vương có ba người con gái, người con
gái lớn là Văn Thù, người thứ hai là Phổ Hiền, người thứ ba là Quan Âm,
người con trai là Địa Tạng”.
V. Tín ngưỡng thờ tự
1. Ở Sri Lanka.
Người Sri Lanka tôn kính Bồ-tát Phổ Hiền như là Saman (còn gọi là
Sumana, Samantha, Sumana Saman). Saman có nghĩa là “mặt trời mọc buổi
sáng”. Đặc
tính của vị thần này có ý nghĩa lịch sử đối với người dân Sri Lanka và sự
sùng kính đặc biệt đối với tất cả các Phật tử. Vị thần Maha Sumana Saman
được miêu tả với mũ miện/vòng hoa, tô điểm ngọc ngà châu báu, cầm một bông
hoa sen ở tay phải hoặc tay trái của mình và đi cùng với một con voi trắng.
Theo Mahavamsa, biên niên sử buổi đầu của Sri Lanka, Saman được coi
là một trong những vị thần bảo hộ cho hòn đảo và Phật giáo ở đất
nước này. Natha, Upulvan, Vibhishana và Kataragama là những vị thần bảo hộ
khác. Triều đại Nayakkar từ miền Nam Ấn Độ đưa Nữ thần Pattini thay thế thần
Saman, trong suốt thời kỳ của vương quốc Kandyan. Saman là vị thần bảo hộ
(vị thần bảo trợ) hoặc vị thần chịu trách nhiệm vùng Sabaragamuwa và núi Sri
Pada. Theo đó, ngôi đền chính hay devalaya là tại Ratnapura, nơi hằng năm có
một lễ hội được tổ chức để vinh danh thần. Một ngôi đền lớn dành riêng cho
Thần Saman nằm ở Mahiyangana thuộc tỉnh Uva của Sri Lanka.
Theo tín niệm chung, Saman có thể là một vị vua hoặc một người cai trị một
tỉnh (Maha Sumana) của Sabaragamuwa từ thị tộc Deva, một trong bốn
thị tộc chính ở Sri Lanka cổ đại. Theo truyền thống của Sammuti Deva
(được coi là một vị thần bởi sự thừa nhận chung), Saman được tôn kính như
một vị thần. Sau khi qua đời, Sumana Saman trở thành một vị thần, với tên
của vị Thần Maha Sumana Saman. Saman cũng được cho là đã được sinh ra như
một Deva (chư thiên) của cõi trời sau khi người qua đời do công đức vĩ đại
trong quá khứ, người cũng trở thành vị thần chịu trách nhiệm về vùng đất Sri
Pada. Một số điều cũng gắn liền người với Bồ-tát Phổ Hiền của Đại thừa.
Trong lịch sử truyền thuyết, Sumana Saman đã mời Đức Phật đến Samanala
Kanda và theo thỉnh cầu, Đức Phật Gautama đã để lại dấu chân của Ngài trên
tảng đá ở đỉnh núi như một biểu hiện của sự thờ phượng tượng trưng, khi
không có Đức Phật. Thần Sumana Saman đã ở đây khi Đức Phật đến viếng thăm
hòn đảo này lần đầu tiên. Thần Saman đã chứng quả Dự lưu (Sotapanna)
sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp. Ngài đã ban cho thần một nhúm tóc mà bảo
tháp ở Mahiyangana đã được thần dựng lên lưu giữ và tôn kính.
Cũng theo Mahavansa, biên niên sử vĩ đại của Sri Lanka, ngọn núi Sri
Pada (còn được gọi là Sumanakuta, Samangira, Samantha Kuta và Samanala
Kanda) mang dấu hằn bàn chân trái của Đức Phật mà Ngài đã để lại trong lần
thứ ba đến viếng thăm hòn đảo này. Một số người nói rằng cái tên Samantha
Kuta có nghĩa là “Đỉnh của Thần Saman”. Nói chung, Phật tử Sri Lanka tin
rằng dấu chân trên đỉnh núi Sri Pada là của Đức Phật, trong chuyến viếng
thăm lần thứ ba đến Kelaniya, cách đây 2.580 năm trước.
Người ta tin rằng người đầu tiên phát hiện ra dấu chân thiêng liêng là nhà
vua Walagamba (104-76 trước TL) trong khi ông tha hương trong vùng núi hoang
dã này. Theo truyền thuyết địa phương, ông đã được dẫn đến đỉnh núi bởi một
vị thần trong lốt của một con hươu. Sau đó, không chỉ những người hành hương
thông thường mà cả hoàng tộc cũng tỏ lòng tôn kính đến dấu chân của Đức Phật
từ thời cổ đại. Bắt đầu hàng năm vào ngày trăng rằm poya trong tháng mười
hai và kết thúc vào ngày Vesak poya của tháng năm là thời gian thích hợp để
hành hương đến Sri Pada. Trong suốt thời gian sáu tháng này, hàng ngàn tín
đồ Phật giáo hành hương lên núi không những để thể hiện sự tôn kính đối với
vị Thần Sumana Saman là người bảo hộ nhân từ của họ, mà còn để chiêm bái và
tôn thờ dấu chân thiêng liêng của Đức Phật trên đỉnh núi này.
Saman là vị thần giám hộ của vùng núi hoang dã. Thần sở hữu con mắt thiêng
liêng được cho là sẽ nhìn
đến Deraniyagala, Boltumbe, Ellakkala, Nivithigala và
núi Benasamanalagala. Người được coi là vị thần chính của khu vực xung quanh
ngọn núi thiêng liêng cũng như của đất nước Sabaragamuwa nói chung.
Các tín đồ Phật giáo Theravada của Sri Lanka sau đó đã biến Thần Saman trở
thành người bảo hộ đất đai và tôn giáo của họ. Với sự gia tăng của Phật giáo
Đại thừa, Saman được nhận biết như là Phổ Hiền, một trong bốn vị Bồ-tát
chính của Đại thừa. Giống Phổ Hiền, Saman thường được miêu tả với mũ
miện/vòng hoa và tô điểm châu báu ngọc ngà, cầm một bông sen trong tay phải
và đi cùng một con voi trắng. Tại Weligama, một bến cảng cổ bên bờ biển phía
Nam của Sri Lanka, có một bức tượng cao khoảng 3.7 mét được một số người tin
rằng đó là hình tượng của Phổ Hiền được chạm khắc rõ nét từ một hòn đá rêu
phủ khổng lồ. Bức tượng này giờ đây được gọi là Kushta Rajagala.
Thần Maha Sumana Saman được thể hiện ở dạng thức nhân hình đi cùng một con
voi trắng, con vật ủi đất xa xưa của Sri Lanka, con thú cao quý của hoàng
gia và có ý nghĩa trong Phật giáo, trong nền tảng của Sri Pada (đỉnh
Adam). Vị thần chói lọi, một sự thần thánh/thiêng liêng trong mọi ý nghĩa
của từ ngữ, nằm giữ một bông sen đỏ, bông hoa ý nghĩa của Phật giáo Sri
Lanka. Và con voi cao quý của Người cũng nắm giữ một bông sen đỏ[26].