TỈNH THỨC VỚI
TÂM KHÔNG BIẾT
Nguyên Giác
Chủ đề bài này là
nói về
tỉnh thức với
tâm không biết.
Như thế, nghĩa là những
gì rất mực
mênh mông, vì cái
biết luôn luôn là có hạn,
và cái không biết luôn
luôn là cái gì của
vô cùng tận. Cũng
là một cách
chúng ta tới với
thế giới này như
một hài nhi, rất mực
ngây thơ với mọi thứ
trên đời. Và vì, bài này
được viết trong một
tỉnh thức với
tâm không biết,
tác giả
không đại diện
cho bất kỳ một
thẩm quyền nào.
Độc giả được mời
gọi tự nhìn về
thế giới trong và
ngoài với một
tâm không biết,
nơi dứt bặt tất cả những
tư lường của
vô lượng những
ngày hôm qua, nơi
vắng lặng tất cả
những mưu tính cho
vô lượng những
ngày mai, và là nơi chảy
xiết không gì để nắm giữ
của
vô lượng khoảnh
khắc hôm nay. Khi
tỉnh thức với
tâm không biết,
cả ba thời quá, hiện,
vị lai sẽ được
hiển lộ ra rỗng
rang tịch lặng như thế.
Đó cũng là chỗ
bà già bán bánh
dẫn
Kinh Kim Cang ra
hỏi ngài Đức Sơn về tâm
của ba thời.
Duyên khởi của
bài này là, mới tuần
trước,
đạo hữu Quí Lê có
gửi qua email hai đoạn
văn tiếng Anh của ngài
Krishnamurti, và
ghi nhận: “Đây
giống như
công án nhà Thiền
mà
thiền sinh thường
tư duy.” Khi
dò tìm qua mạng, thì
biết hai đoạn này trích
từ sách “The Book of
Life” của J.
Krishnamurti” và là
đề mục của ngày
20 tháng 12.
Nơi đây, xin dịch sang
tiếng Việt như sau:
“Tôi không biết…
“Nếu một người có thể
thực sự tới
trạng thái nói
rằng, ‘Tôi không biết,”
nó cho thấy một cảm thức
dị thường của
khiêm tốn; không có cái
kiêu hãnh của
kiến thức; không
có câu
trả lời khẳng
định tự ngã để gây ra
ấn tượng. Khi bạn
có thể thực sự nói, ‘Tôi
không biết,’ mà rất ít
người có khả năng nói
như thế, rằng trong
trạng thái đó tất
cả
sợ hãi đã ngưng
lại bởi vì tất cả cảm
thức của sự
công nhận, sự
tìm kiếm vào ký
ức, đã tới chỗ
kết thúc; không
còn
tìm kiếm
gì nữa vào những
cái đã được biết. Thế
rồi, một điều
dị thường
hiển lộ ra. Nếu
bạn cho tới giờ lắng
nghe điều tôi nói, không
chỉ bằng
lời nói, nhưng
nếu bạn đang thực sự
kinh nghiệm nó,
bạn sẽ thấy rằng khi bạn
có thể nói, ‘Tôi không
biết,’ tất cả [mạng lưới]
nhân duyên ngưng
lại. Và lúc đó cái gì là
trạng thái của
tâm?
Chúng ta đang
tìm kiếm những gì
vĩnh cửu – nói
vĩnh cửu trong
ý nghĩa
thời gian, những
gì
bền vững, những
gì
trường tồn
mãi mãi.
Chúng ta thấy
rằng mọi thứ về
chúng ta là
vô thường, là
trôi chảy, là
đang sinh ra và đang lụi
tàn, và đang chết đi, và
cuộc
tìm kiếm của
chúng ta luôn
luôn là để dựng lập một
điều gì để
bền vững trong
những cái đã được biết.
Nhưng rằng, cái linh
thánh thực sự là siêu
vượt qua những đo
lường của
thời gian; nó
không được
tìm thấy trong
những cái đã được biết.”
(1)
Người viết đã
trả lời email
đạo hữu Quí Lê
rằng: “Hay quá.
Tuyệt vời. Lần
đầu tiên H. đọc thấy
đoạn văn này. Đúng là
Thiền Tông. Không
gì khác.
Cảm ơn. Kính thân.”
Nhưng không chỉ là
Thiền Tông, đó
cũng là lời
Đức Phật dạy
nhiều lần trong Kinh
Nhật Tụng Sơ Thời
(2), những
bài kinh
Đức Phật cho
chư tăng tụng
hàng ngày trong các năm
đầu
tiên thành lập
tăng đoàn.
Đọc như thế, mới
chợt nhớ tới
Abhidharmakośakārikā
(A-tì-đạt-ma-câu-xá
luận) với 600
bài kệ của ngài
Vasubandhu soạn từ thế
kỷ thứ 4 hay 5. Về sau
bộ luận này được ngài
Samathadeva đúc kết
thành một cẩm nang gọi
là Upāyikā, có tính cô
đọng, trong đó bản Tạng
ngữ
duy nhất còn lại
đang được dịch ra Anh
văn. Có một phẩm
đặc biệt, mang ký
số là “Upāyikā 9.004”
chỉ có một dòng chữ: “Consciousness
arises in dependence
upon whatever causes and
conditions.” (Dịch:
Thức khởi dậy,
dựa vào các nhân
và các duyên.)
(3)
Chỉ một câu như thế
thôi, chỉ một dòng chữ
thôi. Để chỉ vào cội
nguồn
Tứ Đế. Như thế,
toàn bộ
Khổ Đế và
Tập Đế là nhân và
duyên khởi dậy.
Như thế,
toàn bộ
Đạo Đế và
Diệt Đế là khi
tịch lặng các nhân và
các duyên này. Và ngay
khi đó, là lời dạy cốt
tủy của
Đức Phật. Nơi
đây, không có lối vào,
theo
Thiền Tông. Vì
tất cả các
phương pháp
tu hành mà
Đức Phật
phương tiện dạy,
chỉ là
ngón tay chỉ trăng.
Nói không có lối vào, là
nói tất cả các lối đi
đều nương vào thức.
Nhưng khi, ngay những
người đời thường như
chúng ta, nói
rằng, “Không biết
nữa,
xin thôi.” Hễ
lúc đó
lặng lẽ nhìn vào
tâm không biết,
thì ngay khi đó sẽ vắng
bặt
tham sân si, vì
tham sân si luôn
luôn
sinh khởi từ
những cái được biết, là
dựa vào những cái
được thấy, được nghe,
được
cảm thọ và được
thức tri. Chính là lời
ngài
Trần Nhân Tông
nói rằng khi đối cảnh
(tỉnh
thức với nội xứ
và ngoại xứ) mà
vô tâm được (tỉnh
thức với
tâm không biết)
thì chẳng cần gì tới cái
gọi là thiền. Bất kỳ ai
cũng có thể tự nghiệm
ra, tùy mức độ. Nơi đây,
cũng là hoàn mãn
Bát Chánh Đạo, vì
trong cái
tỉnh thức nhìn
vào
tâm không biết,
không một
mảy may nào của
tham sân si dấy
lên nữa: tất cả
tham sân si đều
là những trận mưa bụi
của thức ngày hôm qua.
Khi có được
kinh nghiệm như
thế, sẽ dễ dàng
kinh nghiệm
Chương 2 trong sách
Trung Luận của
ngài
Long Thọ. Trong
đó, bản Việt dịch của
Thầy Thích Thiện Siêu là
“Phẩm 02: Quán Về Đi
Lại” (4) ---
trong khi bản Anh dịch
của Jay L. Garfield là
“Chapter II: Examination
of Motion.” (4)
Nơi đây, bạn sẽ
hạnh phúc
vô cùng khi
trải qua
kinh nghiệm rằng
khi đang bước, đang đi,
đang nhấc chân lên, đang
đặt chân xuống, đang
chuyển động… nhưng
đồng thời cũng
thấy rằng không hề có
cái gì đang đi, không hề
có cái gì gọi là đi,
không hề có cái gì gọi
là chuyển động.
Tứ Thánh Đế
hiển lộ ra như
thế, chuyển động nhưng
rất là rỗng rang tịch
tặng.
Trong
trường hợp
học nhân không
ngộ được ý chỉ,
không kinh nghiệm
được như các chỗ vừa
nói, ngài
Long Thọ
(600-650) trao một
phương tiện
quán tâm, trong
phần
Tứ Niệm Xứ của
sách Maha Prajnaparamita
Sastra (Luận Thư Đại
Bát Nhã Ba La Mật Đa).
Nơi đây,
chúng ta chỉ dịch
phần
Niệm Tâm,
dựa vào bản Anh
dịch của
đại sư Gelongma
Karma Migme Chödrön
trong ấn bản 2001. Cũng
nên
ghi nhận, nơi
đây, ngài
Long Thọ không
hoàn toàn dạy
niệm tâm như
truyền thống, mà
là chỉ vào
thực tướng vô tướng,
chỉ vào
pháp ấn
vô ngã. Bởi vì,
trong cái
tỉnh thức rỗng
rang này:
niệm tâm mà không
thấy còn tâm nào để
niệm, mới thực là
niệm tâm
pháp ấn. Xin dịch
như sau.
“Niệm
tâm.
Niệm tâm là gì
đối với bồ tát?
Bồ tát
quán sát
nội tâm.
Nội tâm có 3 đặc
tướng: sinh, trụ và
diệt. Hãy nghĩ thế này:
‘Tâm này không tới từ
đâu, và khi biến mất thì
không đi về bất cứ đâu.
Nó khởi dậy từ một mớ
rối bời
phức tạp của nội
và ngoại của nhân và
duyên.’
Tâm này không cố
định, không có thực
tánh, không hề có thực
là sinh, trụ hay diệt;
nó không
hiện hữu thực ở
quá khứ, tương
lai hay
hiện tại. Tâm này
không ở trong, không ở
ngoài, không giữa
trong/ngoài. Tâm này
cũng không có
tự tánh, không có
đặc tướng, và không có
gì
sinh khởi hay bất
cứ gì làm cho nói
sinh khởi. Bên
ngoài, có nhiều nhân và
duyên chằng chịt nhau,
tức là có 6 xứ (ND: tức
là, 6 cảnh gặp 6 căn);
còn bên trong, là
vọng tưởng. Nhưng
vì sự
tiếp nối
liên tục của
sinh diệt, tên
gọi là tâm (citta) theo
thói quen gọi cho
tất cả các pháp vừa nói.
Tự tánh thực của
tâm không hề
hiện hữu trong
tâm này. Trong
tự tánh của nó,
tâm không hề sinh
ra và cũng không hề
diệt. Tâm này luôn luôn
sáng chiếu, nhưng, vì
ái dục bám vào,
cho nên
chúng ta nói [một
cách
sai lầm] về một
tâm
ô nhiễm.
Tâm không tự
nhận biết chính
nó. Tại sao? Bởi vì tâm
này trống rỗng, không có
đặc tính nào của
tâm. Từ khởi đầu cho tới
tận cùng, tâm này không
có tánh thực nào cả.
Tâm này không nối
kết, cũng không tách lìa
các pháp. Nó không hề có
gì trước, hay sau, hay
giữa. Nó không có màu
sắc, không hình dạng,
không
đối kháng. Nó
sinh khởi chỉ từ
các
lỗi lầm và sai
trật. Tâm này thì trống
rỗng, không hề có cái gì
là ‘tôi’ hay ‘của tôi’;
nó
vô thường và
không thật. Đó là
xem xét về tâm.
Nhận biết rằng
bản tánh của tâm
là
vô sanh là vào
được ‘các pháp vô sanh’.
Tại sao? Bởi vì
tâm không hể có
sinh, không hề có
bản tánh nội tại
nào, và cũng không hề có
đặc tướng nào. Người trí
có thể biết nó. Và mặc
dù người trí
xem xét các
đặc tính sanh và
diệt của tâm này, sẽ
không
tìm ra cái
sinh khởi thực,
cũng không
tìm ra cái
tịch diệt thực.
Không
tìm ra bất kỳ
nhiễm ô nào, cũng
không hề
tìm ra
thanh tịnh nào
trong đó, người
trí nhận ra táng
sáng chiếu của tâm, tánh
sáng chiếu từ
giới hạnh mà
trong đó
tâm không bị
ô nhiễm bởi
ái dục.
Đó là cách
bồ tát
quán sát
nội tâm, và
tương tự với
ngoại tâm, và cả
nội tâm và ngoại
tâm.” (5)
Cứ
quán sát như thế,
cứ tự nhìn như thế. Nhìn
vào khi thức khởi dậy
của tâm
nhận biết bên
trong, và rồi của tâm
nhận biết bên
ngoài. Rồi sẽ
nhận ra cái tâm
vốn rỗng rang, vốn tịch
lặng, cái
tâm không hề
sanh khởi. Cũng
là cái tâm bao trùm cả
“có niệm” và “không
niệm” và là cái tâm
bất động, y hệt
như tánh chiếu của
gương,
hiện ra tất cả
mọi cảnh
di động
sinh diệt nhưng
tánh gương vẫn
bất động, không
từng
suy suyển
xê dịch. Và
hiển lộ của tánh
này chính là cái
tâm không biết,
cái tâm của sự ngây thơ
cực kỳ. Chính ngay ở cái
nhìn đó, tất cả các pháp
hiện ra
thực tướng chính
là không hề có
tự tánh gì. Tất
cả chỉ như chùm bọt
sóng, như khói sương
mai, như quáng nắng
chiều, như tia điện
chớp.
Nơi đây xin ghi lại một
đoạn ở trang 115 từ sách
"Thiền sư Nhẫn Tế: 80
Năm Kỷ Niệm Tây Du Phật
Quốc" nơi bài Dưới Chân
Thầy do
sư huynh Nhứt
Như Thị Giới kể
về Thầy Thích
Tịch Chiếu (cũng
là bổn sư của người
viết):
"Có lần Thầy đang
ngồi đốt vàng mã do một
Phật tử nhờ, một
người thấy vậy đến hỏi
Thầy: “Thầy tin việc này
sao Thầy?” Thầy chỉ ngôi
chùa,
trả lời: “Ông
tưởng ngôi chùa nầy là
thật hay sao?”…”
(6)
Chúng ta có thể
đơn giản nghĩ như
thế này.
Chúng ta sinh ra
tại một
quốc độ, trong
một
gia đình, một thị
trấn, được đặt cho một
tên gọi, rồi vào học một
vài trường, lớn lên
trong một
xã hội, từ đó
chúng ta
trở thành dị biệt
nhau. Hoặc là người Nam,
Trung hay Bắc. Hoặc học
nhiều hay ít. Hoặc ưa ca
vọng cổ, hay hò Huế, hay
quan họ. Theo khẩu vị từ
nhỏ,
chúng ta hoặc
ưa thích ăn cơm,
hay mì sợi, hay bánh mì.
Tất cả các
nhân duyên chằng
chịt nhiều đời đã đưa
chúng ta vào nơi
này, nơi kia, tập nhiễm
để sống theo mô hình
này, mô hình kia. Cứ mỗi
ngày, lại trùm vào người
thêm một lớp vỏ. Nhưng
rồi một hôm, được
đọc Kinh Phật,
được
Đức Phật dạy rằng
hãy
buông bỏ hết tất
cả những gì không phải
là ta, là của ta. Y hệt
như lột vỏ thân cây
chuối, thức dù là
quá khứ,
hiện tại hay
vị lai đều là
rỗng không,
y như trò chơi
ảo thuật, hễ nắm
giữ
ảo hóa chỉ là dày
đặc thêm
sinh tử luân hồi.
Như thế, hãy tự lột vỏ
chuối thì sẽ thấy lõi
cây chuối sẽ là không.
Thấy được thức là từ
nhân duyên, sẽ tự
thấy ngay
tâm không biết,
và chính ngay nơi tâm
này thức sẽ không có gì
để
bám víu. Chỗ này,
nhà sư Dogen (Đạo
Nguyên) của
Tào Động
Nhật Bản gọi ngắn
gọn là “Buông
bỏ
thân tâm.”
Như thế,
tỉnh thức với
tâm không biết
này, sẽ không còn thức
nào có chỗ trụ.
Đức Phật trong
Kinh SA 63, bản dịch hai
thầy Tuệ Sỹ - Đức Thắng
là:
“Này
Tỳ kheo, Ta nói
thức không trụ Đông,
Tây, Nam, Bắc, bốn bên,
trên, dưới, ngoại trừ
ngay
trong đời
hiện tại sẽ nhập
Niết-bàn, diệt tận,
tịch tĩnh,
thanh lương.”
(7)
Hãy
hình dung rằng
mình đang tự lột bỏ hết
tất cả những cái đã
biết. Lúc đó sẽ không
còn thấy mình là Đông,
Tây, Nam hay Bắc, không
còn thấy mình là vọng cổ
hay quan họ, không còn
thấy mình là Tây, Tàu,
Mỹ, Việt, Hàn, Nhật…
gì nữa. Chỉ còn
là một
đạo nhân trần
trụi giữa
cuộc đời này. Khi
không còn một thức nào
dính vào
sắc thanh hương
vị xúc pháp nữa, chính
nơi đó ngay cả một lời
cũng không bận tâm để mở
miệng. Lúc đó
tâm hành giả sẽ
kinh nghiệm được
tịch tĩnh,
thanh lương, và
khi nào diệt tận thì đó
là
Niết Bàn, như lời
Đức Phật dạy.
Tới đây, một câu hỏi có
thể khởi dậy: sao không
vào
sơ thiền,
nhị thiền,
tam thiền, tứ
thiền? Than ôi, khi đã
thấy được
tâm không bệnh,
thấy cái tâm chưa từng
vướng bệnh, thì uống
thuốc chữa trị cái
gì nữa.
Đức Phật gọi đó
là các
trường hợp
giải thoát
thuần túy bằng
tuệ, gọi là
tuệ giải thoát.
Kinh này là SN 12.70.
Ngài Susima do
ngoại đạo gài vào
xuất gia để học
pháp Phật. Ngài Susima
nhìn thấy nhiều vị
Tỳ kheo tới trước
Thế Tôn và
tuyên bố như sau:
“Chúng
tôi biết rõ rằng:
'Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã
thành, những việc nên
làm đã làm, không còn
trở lui
trạng thái này
nữa.'”
Đức Phật
ấn khả,
chấp nhận.
Tỳ kheo Susima
mới hỏi các vị
tỳ kheo, và được
quý vị này
trả lời rằng, quý
ngài không đắc
thần túc thông,
không đắc
thiên nhĩ thông,
không đắc
tha tâm thông,
không nhớ về
kiếp trước, không
đắc
thiên nhãn, không
đắc định
Sắc giới, không
đắc
định Vô sắc giới…
nhưng thật sự các vị đều
đã là bậc
A la hán, đã vào
Niết Bàn dư y, và
đã vượt khỏi
ba cõi
sáu đường. Câu
trả lời của các
vị này cho
Tỳ kheo Susima là:
“Thưa
Hiền giả Susīma,
chúng tôi chứng
được
tuệ giải thoát.”
Ngài Susima mới hỏi trực
tiếp
Đức Phật rằng
tuệ giải thoát là
gì.
Đức Phật
trả lời: “…trước
hết là trí về pháp trú,
sau là trí về Niết-bàn.”
(theo bản
dịch Kinh SN
12.70 của Thầy
Minh Châu). Bản
Anh dịch Sujato là: “Susīma,
first comes knowledge of
the stability of natural
principles. Afterwards
there is knowledge of
extinguishment.” Bản
Anh dịch Bodhi là: “First,
Susīma, comes knowledge
of the stability of the
Dhamma, afterwards
knowledge of Nibbāna.”
(8)
Kế tiếp,
Đức Phật
giải thích thêm
cho ngài Susima, rằng
pháp trú là
thấu triệt
pháp ấn “vô
thường, khổ, vô ngã”
trong tất cả sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, và đó
là
tuệ giải thoát.
Lúc đó là
ly tham, vì không
gì còn dính nữa được.
Như thế, trong cái
tỉnh thức lìa
tham sân si này,
không
cần phải ngồi,
không
cần phải mài
luyện
cầu kỳ. Chỉ
đơn giản là
tỉnh thức với cái
tâm lìa
tham sân si đó
bằng cái thấy nghe hay
biết, mà không dính gì
vào sắc
thọ tưởng hành thức.
Trong cách này,
Thiền Tông đã
trao ra một cây gậy đi
đường là
tỉnh thức với
tâm không biết.
Ngay khi đó, đi đứng nằm
ngồi mà không hề thấy có
cái gì đi đứng nằm ngồi,
cũng không hề thấy có
tướng đi đứng nằm ngồi,
và đó là cái tịch lặng,
cái
hạnh phúc vô bờ
bến.
GHI CHÚ:
(1) Krishnamurti. I do
not know:
http://legacy.jkrishnamurti.org/krishnamurti-teachings/view-daily-quote/20111220.php
(2) Kinh
Nhật Tụng Sơ Thời:
https://thuvienhoasen.org/a30590/kinh-nhat-tung-so-thoi
(3) Upāyikā 9.004:
https://suttacentral.net/up9.004/en/dhammadinna
(4) HT Thích Thiện Siêu,
Trung Luận:
https://thuvienhoasen.org/p19a15697/pham-02-quan-ve-di-lai
Garfield, The
Fundamental Wisdom of
the Middle:
www.tinyurl.com/ym7hv24e
(5)
Long Thọ:
Niệm Tâm.
https://www.wisdomlib.org/buddhism/book/maha-prajnaparamita-sastra/d/doc225580.html
(6) Sách
Thiền Sư Nhẫn Tế:
https://thuvienhoasen.org/images/file/MTemVP6V0ggQAPE8/80-nam-tay-du-ky-phat-quoc.pdf
(7) Kinh SA 64:
https://suttacentral.net/sa64/vi/tue_sy-thang
(8) Kinh SN 12.70:
https://suttacentral.net/sn12.70/vi/minh_chau
Kinh
tương tự bên
A Hàm là SA-347:
https://suttacentral.net/sa347/vi/tue_sy-thang