Đó là cánh chim Hạc
trắng,
một lần bay ngang
vùng đồi núi, miền Nam
California và đáp xuống
sân trước một
đạo tràng
Tịnh Độ.
Hạc trắng đáp
xuống, đứng ngay bên
Tôn Tượng Chư
Phật, khi trong
Chánh Điện,
đại chúng đang
tụng Kinh
A Di Đà. Hạc
trắng đáp xuống không
phải để
tìm kiếm
thức ăn vì quanh
sân không có gì là
thực phẩm cho
chúng.
Vậy, sao Hạc đáp
xuống, rồi
đứng yên bên
tượng Phật, đứng
lặng lẽ,
bình an như đây
là nơi chốn mà Hạc chủ
tâm tìm về ?
Trong
chánh điện, tiếng
tụng kinh vang
vang “… Bạch-hạc,
Khổng- tước, Anh-võ,
Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già,
Cộng-mang chi điểu, thị
chư chúng điểu,
trú dạ lục thời,
xuất hoà nhã âm, kỳ âm
diễn xướng,
ngũ căn,
ngũ lực,
thất bồ đề phần,
bát thánh đạo phần,
như thị đẳng pháp,
kỳ độ
chúng sanh, văn
thị âm dĩ, giai tất
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng …”
Qua khung
cửa sổ
chánh điện, một
vài người đã nhìn thấy
Bạch-hạc và
bồi hồi
cảm động vì Hạc
đứng yên như thế,
như nghe tiếng
kinh A Di Đà mà
đáp xuống rồi cùng
đại chúng tụng
Bổn Kinh mà chính Đức
Thích Ca đã
truyền thuyết.
Khi
đại chúng bắt đầu
kinh hành thì hầu
như
mọi người đều
nhìn thấy
cảnh tượng
bất khả tư nghì
này, và một vài vị đã mở
phone tay, đưa lên chụp,
ghi lại
hình ảnh
vi diệu mà ống
kính của những nhiếp ảnh
gia chuyên nghiệp có sắp
xếp cũng không tạo được
!
Bạch-hạc
đứng lặng thinh như thế,
rất lâu, rồi
di chuyển chậm,
như cùng
kinh hành với
đại chúng.
Tới gần cuối sân,
Hạc bước nhanh hơn, lấy
đà, rồi tung cánh bay
lên, biến mất trong
không gian
mênh mông trời
xanh, mây trắng …
Có những
hạnh phúc bất ngờ,
không gì đổi được, không
gì mua được !
Hành giả tu
niệm Phật ở một
đạo tràng
Tịnh Độ xa nơi
phố thị, không thể tượng
tượng được rằng trong
khi
đại chúng cùng
nhất tâm
tụng kinh
A Di Đà thì bên
ngoài kia đang chợt
hiển lộ
cảnh giới
Tây Phương Cực Lạc,
như lời kinh đang trì
tụng !
Bạch-hạc không chỉ
một lần đáp xuống
mà những khoá tu sau,
thỉnh thoảng lại
về, không phải chỉ một,
mà có khi hai, ba cánh
Hạc cùng về, cùng
đứng yên bên
tôn tượng Chư
Phật.
Giải thích cách
nào hơn, là
niềm tin vào sự
mầu nhiệm mà
Đức Thế Tôn đã
“vô vấn tự thuyết”.
Không chờ ai hỏi và Ngài
đã chọn đối tượng là
Tôn Giả Xá Lợi Phất
để
thuyết giảng về
Tịnh-Độ-Quốc. Nơi đó chỉ
tràn ngập niềm
an lạc, không có
danh từ ác, huống chi là
sự ác, nên những loài
chim kia không phải do
nghiệp báo sanh
ra, mà do Đức
Giáo Chủ cõi
Tây Phương biến
tạo ra, mang
hình ảnh
tự tại và tiếng
hót hoà nhã
kỳ diệu mà truyền
lưu
giáo pháp.
“…
Xá Lợi Phất, kỳ
Phật quốc độ
thượng vô
ác đạo chi danh,
hà huống hữu
thiệt. Thị chư chúng
điểu, giai thị
A Di Đà Phật dục
linh
pháp âm
tuyên lưu
biến hoá
sở tác …”
Thế nhưng, cõi tạm
Ta-bà không ngừng
biến động. Giữa
thế giới
vô thường không
ngừng những còn, mất,
đến, đi, nên bãi biển có
hoá nương dâu cũng chỉ
là
chuyển hoá trong
bao hoạt cảnh
vô thường mà
thôi.
Một ngày khá bất ngờ,
đại chúng phải
chia tay, mỗi người một
ngả, tuỳ
hoàn cảnh và khả
năng của mỗi người khi
đó. Họ tạm biệt nhau
bằng lời
ân cần dặn dò,
vẫn giữ
công phu, vẫn
chuyên tâm
niệm Phật nhé!
Tự thân mỗi người đều
biết rằng họ còn rất cần
tha lực của nhau,
đồng thời cũng
hiểu rằng những
biến động khiến
phải
xa nhau có thể là
cơ duyên để họ
kiểm tra và
nhận diện
tự lực của mình
mà
sửa đổi những
sai lầm hoặc phải
tinh tấn hơn lên.
Rồi lòng
hoài niệm và
chạnh nhớ nhau đã khiến
nhóm đồng tu ngày nào,
gọi nhau để cùng có một
ngày gặp mặt. Sau nhiều
tháng
xa nhau, họ đã
hội ngộ trên căn gác nhỏ
của một
bạn đạo.
Phút gặp lại nhau,
ngỡ sẽ xôn xao
thăm hỏi cho thoả
lòng nhớ nhung, nhưng lạ
thay, không ai bảo ai,
họ đều
hết sức từ tốn,
nhẹ nhàng cầm lấy tay
nhau, nhưng qua ánh mắt
thì đều
biểu lộ tràn đầy
tấm lòng bấy lâu vẫn nhớ
nghĩ nhau; nên khi câu
chào “A
Di Đà Phật” vừa
thốt ra, đã như thác lũ
không chặn nổi bờ đê
mong manh! Lời chào tuôn
theo những hạt lệ mừng
vui…
Chỉ thế thôi.
Sau khi
lạy Phật rồi ngồi
xuống bên nhau, đồng
tụng Kinh
A Di Đà thì họ đã
cảm nhận ngay được một
điều rõ rệt, là họ
chưa từng
xa nhau, chưa
từng chia cách !
Chánh Báo ở ngay
trong trái tim ta khi
lòng ta
chí thành và tâm
ta
chánh niệm.
Xin đừng cố
giãi bày những gì
mầu nhiệm chỉ có
thể cảm nhận qua sự
cảm thông của
muôn lòng như một, bởi
ngôn ngữ
nhân gian có
giới hạn, mà sự
mầu nhiệm thì vô
hạn !
Lần hội ngộ đó, họ có
với nhau một ngày
tu trọn ven, như từng
ngồi bên nhau
niệm Phật suốt
đêm trong những khoá tu
24/24 mấy năm trước, tại
một
đạo tràng vùng
đồi núi
yên tịnh. Bằng
tín nguyện chí
thiết, có lẽ, họ đã gieo
được trong tâm,
chủng tử “cùng
nhau
niệm Phật miên
mật” mà
nếu không có
thử thách của
tình cảnh “bãi
biển hoá nương dâu” thì
họ chưa
nhận biết được
phước báu đã có.
Cũng với
niềm tin này thì
năm xưa, khi Bạch-hạc
hân hoan đáp
xuống nơi đang vang vọng
âm thanh
tụng kinh,
niệm Phật, nếu
ngày nay Hạc có ghé thăm
cảnh cũ nhưng người xưa
đã xa, hẳn niềm bâng
khuâng chỉ là thoáng
chốc, vì đã từng gieo
được
chủng tử
vi diệu thì dù
chỉ
một lần đáp
xuống,
Chánh Báo cũng đã
ngự trong tim.
Bạch- hạc sẽ vẫn
hoan hỷ tung cánh
bay cao, bay xa,
tuyên lưu
trách nhiệm
Đức Phật
A Di Đà
giao phó là “
…Ngày đêm sáu thời kêu
tiếng hoà nhã
diễn thuyết những
pháp mầu như
Ngũ Căn,
Ngũ Lực, Thất
Bồ Đề Phần,
Bát Thánh Đạo Phần
…v…v… để
chúng sanh nào
nghe được tiếng
chim xong, thảy đều
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng …”
Bạch-hạc ơi !
Một lần đáp
xuống,
công ích
vô lượng lần bay
xa …
Chí tâm đảnh lễ
Phương Tiện Thánh
Cư Độ,
A Di Đà
Như lai,
thân căn giới
Đại Thừa, khắp
pháp giới Chư
Phật.
Huệ
Trân
(Thân tặng các
bạn đồng tu đã
từng ngồi bên nhau, cùng
hành trì miên mật
trong những khoá tu
niệm Phật 24/24)