Vai trò của vua Songtsen Gampo trong việc truyền bá Phật giáo Tây Tạng
tim hieu nguyen nhan
VAI TRÒ CỦA VUA
SONGTSEN GAMPO
TRONG VIỆC TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO Ở TÂY TẠNG
Thích Nữ Tâm Liên
Trước khi Phật giáo du nhập,
Tây Tạng có một số truyền thống tín
ngưỡng bản địa. Một trong những tín
ngưỡng cổ xưa ở Tây Tạng được gọi
là Bổng giáo (Bonism), có mặt
trước thời Đức Phật. Tín ngưỡng này chi phối mọi
phương diện đời sống của người Tây Tạng.
Sự ảnh hưởng của nó kéo dài cho đến khoảng thế kỷ XIV. Trước
Bổng giáo có một tôn giáo lâu đời được gọi
là Tát-mãn giáo (Shamanism),
và Bổng giáo được cho bắt nguồn từ tôn giáo này.
Bổng giáo được chia làm ba thời kỳ.
- Thời kỳ đầu (thế
kỷ I TL) là thời kỳ Bổng giáo nguyên thủy
(Hjol bon). Đây là thời kỳ
của Bổng giáo sư. Thời này chưa đặt
định ra nghi thức cúng bái Tinh
linh
cũng như chưa hoàn chỉnh giáo nghĩa để có thể truyền bá.
- Thời kỳ thứ hai (thế kỷ thứ
I - X TL) là thời kỳ Hỗn tạp Bổng
giáo (Hkhyar-bon). Đây là thời kỳ có sự tương tác
giữa Phật giáo và Bổng giáo nguyên thủy.
- Thời kỳ thứ ba (thế
kỷ thứ XI - XIV TL) là thời kỳ
Bổng giáo cách tân (Bsgyur bon). Đây là
thời kỳ sau khi Bổng giáo chịu ảnh
hưởng Phật giáo. Bổng giáo vào
thời kỳ này đã có nhiều biến cải, cách tân. Bổng giáo
bấy giờ đã vay mượn nhiều triết thuyết từ Phật giáo. Tổ
chức giáo đoàn hoàn toàn mới. Họ xây dựng
hệ thống tu viện giống như Phật giáo, và cũng
xuất hiện nhiều người xuất gia giống như tu sĩ
Phật giáo. Những vị tu
sĩ Bổng giáo cũng giữ giới luật như tu sĩ Phật giáo.
Vào tiền bán thế kỷ thứ VII,
Tây Tạng là quốc gia có nền quân sự khá
mạnh. Bấy giờ vua
Songtsen Gampo (Tùng Tán Cang Bố)
đã đem quân đi đánh một số nước thuộc vùng Trung Á,
và nhân đó đã tấn công vào Trường An.
Vị vua trị vì Trung Quốc lúc bấy giờ là Đường Thái Tông. Sau khi
tấn công vào nhà Đường, vua
Songtsen
Gampo đã ra một yếu sách rằng nhà Đường
phải gả một người công chúa của nước này
cho vua Tây Tạng. Trước tình thế đó, vua nhà Đường
đã gả công chúa Văn Thành
cho vua Songtsen Gampo.
Công chúa Văn Thành là cháu gái của Đường Thái Tông.
Bà được biết đến là người đã tích cực truyền bá văn hóa
Phật giáo ở Tây Tạng.
Khi theo chồng về Tây Tạng,
ngoài của hồi môn, công chúa Văn Thành đã
đem theo nhiều kinh sách Phật giáo, tượng Phật, sách y
học... Năm công chúa Văn Thành rời Trung Hoa để
đến Tây Tạng là năm 641. Đây cũng
được xem là năm Phật giáo chính thức được
truyền vào Tây Tạng. Trước khi xâm chiếm Tây Tạng, vua
Songtsen Gampo
đã đem quân xâm lược Nepal và cũng ra yếu sách buộc vua
Nepal phải gả công chúa của xứ này cho mình.
Cuộc đời và sự đóng góp của
vua
Songtsen Gampo cho Phật giáo
Vua
Songtsen Gampo
(Tùng Tán Cang Bố,
617-650)
sinh tại làng Maldro (nằm về phía Đông
bắc Lhasa). Ông là con trai của Nang Nhật Luận
Tán và Thái Bang Trác Tát Thỏa Cát thuộc gia tộc Thái
Bang, gia tộc đóng vai trò quan trọng trong việc thống
nhất Tây Tạng. Vua
Songtsen Gampo được cho là người có tướng
kỳ dị, như tay chân có màng bơi;
và vì là người kỳ dị nên ông được dân chúng
tôn lên làm vua. Ông là một trong ba vị Pháp vương đầu tiên của Tây Tạng,
là vị vua đời thứ ba mươi ba trị vì triều đại Yarlung.
Vua
Songtsen Gampo
có nhiều vợ, nhưng 2 người đáng chú ý nhất là Ba Lợi Khố Cơ
(công chúa của nước Nepal) và Văn Thành (cháu gái Đường Thái Tông). Cả hai đều
là những Phật tử thuần thành. Nhờ những cuộc hôn nhân này mà
nhà vua biết đến Phật giáo và quy kính
Tam bảo.
Và sau khi quy y Tam bảo, ông cùng hai người vợ trở thành
những người truyền bá Phật giáo nhiệt thành
và có vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển Phật giáo ở Tây Tạng.
Công lao của vua
Songtsen Gampo đối với
Phật giáo vào giai đoạn sơ kỳ rất lớn. Ông
là người vừa gieo hạt vừa ươm mầm, là người có công đặt nền móng
ban đầu cho Phật giáo. Thông qua việc kết hôn với
hai công chúa người nước ngoài,
vua Songtsen Gampo
đã có cơ hội tiếp cận những nền văn minh lớn, và qua đó
tạo động lực để ông nỗ lực phát triển đất nước. Ông được
xem là Asoka
của Tây Tạng.
Dựa vào tư tưởng Phật giáo,
vua Songtsen Gampo
đã ban hành “10 điều hiền
thiện”
và “16 yếu luật”
để dân chúng thi hành. Ông ra lệnh cho cả nước
phải học tập theo “10 điều hiền thiện”
và “16 yếu luật” này để làm
lành mạnh xã hội. Những văn bản này trở thành
những văn bản đầu tiên có liên
quan đến triết lý Phật giáo. Nhiều người cho rằng, kể từ
đây đất nước Tây Tạng mới thoát khỏi tình trạng
mông muội.
Vua
Songtsen Gampo cũng được
cho đã thỉnh chư Tăng người Hán và
Ấn Độ đến Tây Tạng hoằng pháp, đồng thời ông cũng
gửi người đến Ấn Độ nghiên cứu chữ viết cho Tây
Tạng,
để soạn thảo ra quy
chế chính trị và hành chánh Tây Tạng.
Trong phái đoàn được phái đến Ấn Độ
có quan đại thần Thon-mi
Sambhoṭa
(Đoan Mỹ Tam Bồ Đề).
Những người này sau khi từ Ấn Độ trở về đã
dùng Phạn văn (Devanāgari) làm cơ sở để sáng tạo mẫu tự Tây Tạng, rồi
dùng Tạng văn mới phiên dịch kinh Phật. Bản
thân Tạng vương cũng tự mình học cách sử dụng Tạng văn.
Kể từ đó Tây Tạng mới bắt đầu tiến vào
thời kỳ văn minh. Những tác phẩm
đầu tiên được dịch sang Tạng ngữ là Bảo khiếp
trang nghiêm, Bách bái
sám hối, Thỉnh vũ
đại kinh. Người
có công dịch những bản kinh này là
Thon-mi Sambhoṭa
cùng với một số Tăng sĩ ngoại quốc và các
đệ tử của ông.
Sau khi kinh sách được
phiên dịch sang Tạng ngữ, Phật giáo Tây
Tạng có một sự phát triển vượt bậc.
Dù du nhập khá muộn so với
một số nước khác, tuy nhiên Phật giáo đã sớm trở thành
tôn giáo chủ đạo ở đất nước này và niềm tin của người dân
Tây Tạng vào Phật giáo rất sâu đậm.
Thêm nữa, chính Phật giáo đã
chuyển hóa sâu sắc
tính cách của
người Tây Tạng. Chính vua
Songtsen Gampo cũng đã xem
giáo lý Phật giáo như là những yếu tố cần thiết
cho việc
thay đổi con người Tây Tạng. Trong
16 điều cương yếu của vua Songtsen
Gampo, điều đầu tiên là cung kính Phật. Như
vậy cho thấy rằng ông rất coi trọng Phật
giáo trong việc phát triển đạo đức xã hội.
Ngoài việc tôn kính Phật, ông còn nhấn mạnh
đến việc hành xử trong gia đình, như con cái
phải hiếu thảo với cha mẹ, giữ hòa hợp
với bà con họ hàng. Còn đối với việc ứng xử xã hội thì ông yêu cầu
không được sinh tâm đố kỵ, phải trả nợ đúng kỳ,
trong việc buôn bán thì không được gian lận trong cân đo
đong đếm. Đối với lời nói thì cần phải thành thật, không
nghe lời xàm ngôn; trong công việc
thì phải siêng năng, cẩn trọng… 16 điều yếu luật cơ bản này được xem là
đóng góp lớn của vua Songtsen Gampo cho Tây Tạng vào lúc
bấy giờ.
Chính
nhà vua cũng áp dụng
lời dạy của Đức
Phật vào đời sống hằng ngày của mình. Ông
cũng khuyên dân chúng nên
quay về nương tựa Phật, không mê tín theo tà đạo. Bên cạnh đó,
ông còn cho xây dựng chùa Đại Chiêu để
thờ công chúa Văn Thành, chùa Tiểu Chiêu để
thờ công chúa Ba Lợi Khố Cơ. Đây là những ngôi chùa đầu
tiên ở Tây Tạng. Sau khi đặt nền móng vững chắc
cho việc phát triển Tây Tạng,
vào những năm cuối đời, vua Songtsen
Gampo lui về sống đời ẩn dật.
Như vậy, vua
Songtsen Gampo
được xem là người đặt nền móng đầu tiên cho việc phát
triển Phật giáo ở Tây Tạng; và ông cũng là người đã có
những đóng góp quan trọng cho việc khai minh đất nước này.
Chính nhờ ông mà Tây Tạng có ngôn ngữ riêng, đời
sống xã hội có nhiều thay đổi và văn hóa Phật giáo trở thành nền văn hóa chủ đạo
của đất nước này. Một học giả phương
Tây đã viết rằng, “So
sánh với các dân tộc trên thế giới thì người Tây Tạng vốn là một dân tộc hung
hãn, mạnh bạo và giỏi chiến đấu, nếu họ không biết kiên cường giữ lấy tín ngưỡng
Phật giáo để tự chế bản tánh hung tợn nguyên thuỷ của mình, có thể nói một ngày
nào đó từ trên nóc nhà thế giới, họ sẽ khiến cho cả Châu Á và toàn cầu phải kinh
hồn bạt vía với họ”.
Chính Songtsen Gampo
là người đã chuyển hóa được tính cánh
con người Tây Tạng bằng các nguyên tắc sống đạo đức dựa trên triết lý Phật giáo,
vì thế công lao của
Songtsen Gampo vô cùng to lớn đối với đất nước này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thánh Nghiêm và Tịnh Hải, Lịch sử
Phật giáo thế giới,
Nguyễn Đức Sâm, Mai Xuân Hải, Nguyễn Tá Nhí, Thích Thanh Ninh, Nguyễn Văn Pháp,
Nguyễn Quế Lai biên dịch, NXB.Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội, 2008.
2. Pháp Sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch, Lịch
sử Phật giáo Tây Tạng,
NXB.Phương Đông, 2013.
3. C. Alexander Simpkins and Annellen Simpkins,
Ánh sáng Mật tông con đường tâm linh Tây
Tạng, Thích Minh Thành dịch, NXB.Hồng
Đức, Hà Nội, 2014.
4. Trần Quang Thuận, Phật giáo
trong dòng lịch
sử văn hoá
Tây Tạng, NXB.Hồng Đức, Hà
Nội, 2015.
5. Matthew T. Kapstein, Dẫn luận về
Phật giáo Tây Tạng (Tibetan Buddhism A Very Short
Introduction), NXB.Hồng Đức,
Hà Nội, 2016.
Pháp sư
Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch, Lịch
sử
Phật giáo
Tây Tạng, NXB.Phương
Đông, 2013, tr.38-39.
Tín ngưỡng Tinh linh là
niềm tin rằng con người và tất cả loài động thực vật đều có linh hồn.
Triều đại Yarlung, hay
còn gọi là Thổ Phồn tiền
Đế quốc, là một quốc gia cổ của người Tạng.
Các vị vua của triều đại này mang nhiều tính thần thoại.
C. Alexander Simpkins
and Annellen Simpkins, Ánh sáng Mật
tông
con đường tâm linh Tây Tạng,
Thích Minh Thành dịch, NXB.Hồng
Đức, Hà Nội,
2014.
Ashoka Đại Đế (A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Maurya, trị vì Ấn
Độ từ năm 273-232 trước TL. Ông là một trong những hoàng đế kiệt xuất
trong lịch sử Ấn Độ. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng khi mới lên
ngôi, ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác. Về sau ông quy y Tam bảo
và có công lớn trong việc truyền bá Phật giáo.
[7]
Mười điều Hiền thiện: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cướp; 3. Không tà
tâm; 4. Không vọng ngữ; 5. Không nói hai lưỡi; 6. Không nói ác; 7. Không
nói thêu dệt; 8. Không tham dục; 9. Không sân hận; 10 Không tà kiến.
Mười sáu Yếu luật gồm: 1. Kính tin Phật; 2. Hiếu thuận cha mẹ; 3. Tôn
kính các bậc cao đức; 4. Hòa mục thân tộc; 5. Giúp đỡ xóm giềng; 6. Nói
lời trung tín; 7. Làm việc phải cẩn thận; 8. Chăm chỉ làm việc; 9. Tiền
tài tri túc; 10. Phải biết báo đáp thù ân; 11. Phải trả nợ đúng ước
hẹn; 12. Cân, đấu, đong đo phải công bằng; 13. Không sinh lòng đố kỵ;
14. Không nghe lời sàm ngôn; 15. Phải xét nét ngôn ngữ trước khi nói;
16. Phải xử sự khoan hậu.
Trần Quang Thuận,
Phật giáo trong dòng lịch sử, văn hóa
Tây Tạng,
NXB.Hồng
Đức, Hà Nội,
2015.
Thon-mi Sambhoṭa
(Thôn-mễ-tang bố-trát) sinh ở
Dbus, sống vào khoảng thế kỷ VII, là tể tướng dưới triều vua
Sroibtsan-sgam-po. Năm 632, vâng mệnh vua, ông cùng với 16 người khác
sang Ấn Độ học Phật học và âm vận học để chuẩn bị cho việc sáng tạo văn
tự Tây tạng.
Pháp sư
Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch, Lịch
sử
Phật giáo
Tây Tạng, NXB.Phương
Đông, 2013, tr.55-56.