Vai trò của vua Songtsen Gampo trong việc truyền bá Phật giáo Tây Tạng

tim hieu nguyen nhan

VAI TRÒ CỦA VUA SONGTSEN GAMPO

TRONG VIỆC TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO Ở TÂY TẠNG

Thích Nữ Tâm Liên

            Trước khi Phật giáo du nhập, Tây Tạng một số truyền thống tín ngưỡng bản địa. Một trong những tín ngưỡng cổ xưa ở Tây Tạng được gọi là Bổng giáo (Bonism), có mặt trước thời Đức Phật. Tín ngưỡng này chi phối mọi phương diện đời sống của người Tây Tạng. Sự ảnh hưởng của nó kéo dài cho đến khoảng thế kỷ XIV. Trước Bổng giáo một tôn giáo lâu đời được gọi là Tát-mãn giáo (Shamanism), và Bổng giáo được cho bắt nguồn từ tôn giáo này. Bổng giáo được chia làm ba thời kỳ.[1]

            - Thời kỳ đầu (thế kỷ I TL) là thời kỳ Bổng giáo nguyên thủy (Hjol bon). Đây là thời kỳ của Bổng giáo sư. Thời này chưa đặt định ra nghi thức cúng bái Tinh linh[2] cũng như chưa hoàn chỉnh giáo nghĩa để có thể truyền bá.

            - Thời kỳ thứ hai (thế kỷ thứ I - X TL) là thời kỳ Hỗn tạp Bổng giáo (Hkhyar-bon). Đây là thời kỳ có sự tương tác giữa Phật giáo và Bổng giáo nguyên thủy.

            - Thời kỳ thứ ba (thế kỷ thứ XI - XIV TL) là thời kỳ Bổng giáo cách tân (Bsgyur bon). Đây là thời kỳ sau khi Bổng giáo chịu ảnh hưởng Phật giáo. Bổng giáo vào thời kỳ này đã có nhiều biến cải, cách tân. Bổng giáo bấy giờ đã vay mượn nhiều triết thuyết từ Phật giáo. Tổ chức giáo đoàn hoàn toàn mới. Họ xây dựng hệ thống tu viện giống như Phật giáo, và cũng xuất hiện nhiều người xuất gia giống như tu sĩ Phật giáo. Những vị tu sĩ Bổng giáo cũng giữ giới luật như tu sĩ Phật giáo.

            Vào tiền bán thế kỷ thứ VII, Tây Tạng là quốc gia có nền quân sự khá mạnh. Bấy giờ vua Songtsen Gampo (Tùng Tán Cang Bố) đã đem quân đi đánh một số nước thuộc vùng Trung Á, và nhân đó đã tấn công vào Trường An. Vị vua trị vì Trung Quốc lúc bấy giờ là Đường Thái Tông. Sau khi tấn công vào nhà Đường, vua Songtsen Gampo đã ra một yếu sách rằng nhà Đường phải gả một người công chúa của nước này cho vua Tây Tạng. Trước tình thế đó, vua nhà Đường đã gả công chúa Văn Thành[3] cho vua Songtsen Gampo. Công chúa Văn Thành là cháu gái của Đường Thái Tông. Bà được biết đến là người đã tích cực truyền bá văn hóa Phật giáo ở Tây Tạng.

            Khi theo chồng về Tây Tạng, ngoài của hồi môn, công chúa Văn Thành đã đem theo nhiều kinh sách Phật giáo, tượng Phật, sách y học... Năm công chúa Văn Thành rời Trung Hoa để đến Tây Tạng là năm 641. Đây cũng được xem là năm Phật giáo chính thức được truyền vào Tây Tạng. Trước khi xâm chiếm Tây Tạng, vua Songtsen Gampo đã đem quân xâm lược Nepal và cũng ra yếu sách buộc vua Nepal phải gả công chúa của xứ này cho mình.

             Cuộc đời và sự đóng góp của vua Songtsen Gampo cho Phật giáo

            Vua Songtsen Gampo (Tùng Tán Cang Bố, 617-650) sinh tại làng Maldro (nằm về phía Đông bắc Lhasa). Ông là con trai của Nang Nhật Luận Tán và Thái Bang Trác Tát Thỏa Cát thuộc gia tộc Thái Bang, gia tộc đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất Tây Tạng. Vua Songtsen Gampo được cho là người có tướng kỳ dị, như tay chân có màng bơi; và vì là người kỳ dị nên ông được dân chúng tôn lên làm vua. Ông là một trong ba vị Pháp vương đầu tiên của Tây Tạng, là vị vua đời thứ ba mươi ba trị vì triều đại Yarlung.[4]

            Vua Songtsen Gampo có nhiều vợ, nhưng 2 người đáng chú ý nhất là Ba Lợi Khố Cơ (công chúa của nước Nepal) và Văn Thành (cháu gái Đường Thái Tông). Cả hai đều là những Phật tử thuần thành. Nhờ những cuộc hôn nhân này nhà vua biết đến Phật giáo và quy kính Tam bảo[5]. Và sau khi quy y Tam bảo, ông cùng hai người vợ trở thành những người truyền bá Phật giáo nhiệt thành và có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển Phật giáo Tây Tạng.

            Công lao của vua Songtsen Gampo đối với Phật giáo vào giai đoạn sơ kỳ rất lớn. Ông là người vừa gieo hạt vừa ươm mầm, là người có công đặt nền móng ban đầu cho Phật giáo. Thông qua việc kết hôn với hai công chúa người nước ngoài, vua Songtsen Gampo đã có cơ hội tiếp cận những nền văn minh lớn, và qua đó tạo động lực để ông nỗ lực phát triển đất nước. Ông được xem là Asoka[6] của Tây Tạng.

            Dựa vào tư tưởng Phật giáo, vua Songtsen Gampo đã ban hành 10 điều hiền thiện”[7] và “16 yếu luật”[8] để dân chúng thi hành. Ông ra lệnh cho cả nước phải học tập theo “10 điều hiền thiện” và 16 yếu luật” này để làm lành mạnh xã hội. Những văn bản này trở thành những văn bản đầu tiên liên quan đến triết lý Phật giáo. Nhiều người cho rằng, kể từ đây đất nước Tây Tạng mới thoát khỏi tình trạng mông muội.

            Vua Songtsen Gampo cũng được cho đã thỉnh chư Tăng người Hán và Ấn Độ đến Tây Tạng hoằng pháp, đồng thời ông cũng gửi người đến Ấn Độ nghiên cứu chữ viết cho Tây Tạng, để soạn thảo ra quy chế chính trị và hành chánh Tây Tạng.[9] Trong phái đoàn được phái đến Ấn Độ có quan đại thần Thon-mi Sambhoa (Đoan Mỹ Tam Bồ Đề)[10]. Những người này sau khi từ Ấn Độ trở về đã dùng Phạn văn (Devanāgari) làm cơ sở để sáng tạo mẫu tự Tây Tạng, rồi dùng Tạng văn mới phiên dịch kinh Phật. Bản thân Tạng vương cũng tự mình học cách sử dụng Tạng văn. Kể từ đó Tây Tạng mới bắt đầu tiến vào thời kỳ văn minh. Những tác phẩm đầu tiên được dịch sang Tạng ngữ là Bảo khiếp trang nghiêm, Bách bái sám hối, Thỉnh vũ đại kinh. Người có công dịch những bản kinh này Thon-mi Sambhoa cùng với một số Tăng sĩ ngoại quốc và các đệ tử của ông.

            Sau khi kinh sách được phiên dịch sang Tạng ngữ, Phật giáo Tây Tạng có một sự phát triển vượt bậc. Dù du nhập khá muộn so với một số nước khác, tuy nhiên Phật giáo đã sớm trở thành tôn giáo chủ đạo ở đất nước này và niềm tin của người dân Tây Tạng vào Phật giáo rất sâu đậm. Thêm nữa, chính Phật giáo đã chuyển hóa sâu sắc tính cách của người Tây Tạng. Chính vua Songtsen Gampo cũng đã xem giáo lý Phật giáo như là những yếu tố cần thiết cho việc thay đổi con người Tây Tạng. Trong 16 điều cương yếu của vua Songtsen Gampo, điều đầu tiên là cung kính Phật. Như vậy cho thấy rằng ông rất coi trọng Phật giáo trong việc phát triển đạo đức xã hội.

            Ngoài việc tôn kính Phật, ông còn nhấn mạnh đến việc hành xử trong gia đình, như con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, giữ hòa hợp với bà con họ hàng. Còn đối với việc ứng xử xã hội thì ông yêu cầu không được sinh tâm đố kỵ, phải trả nợ đúng kỳ, trong việc buôn bán thì không được gian lận trong cân đo đong đếm. Đối với lời nói thì cần phải thành thật, không nghe lời xàm ngôn; trong công việc thì phải siêng năng, cẩn trọng… 16 điều yếu luật cơ bản này được xem là đóng góp lớn của vua Songtsen Gampo cho Tây Tạng vào lúc bấy giờ.

            Chính nhà vua cũng áp dụng lời dạy của Đức Phật vào đời sống hằng ngày của mình. Ông cũng khuyên dân chúng nên quay về nương tựa Phật, không mê tín theo tà đạo. Bên cạnh đó, ông còn cho xây dng chùa Đại Chiêu để thờ công chúa Văn Thành, chùa Tiểu Chiêu để thờ công chúa Ba Lợi Khố Cơ. Đây là những ngôi chùa đầu tiên Tây Tạng. Sau khi đặt nền móng vững chắc cho việc phát triển Tây Tạng, vào những năm cuối đời, vua  Songtsen Gampo lui về sống đời ẩn dật.

            Như vậy, vua Songtsen Gampo được xem là người đặt nền móng đầu tiên cho việc phát triển Phật giáo ở Tây Tạng; và ông cũng là người đã có những đóng góp quan trọng cho việc khai minh đất nước này. Chính nhờ ông mà Tây Tạng có ngôn ngữ riêng, đời sống xã hội có nhiều thay đổi và văn hóa Phật giáo trở thành nền văn hóa chủ đạo của đất nước này. Một học giả phương Tây đã viết rằng, So sánh với các dân tộc trên thế giới thì người Tây Tạng vốn là một dân tộc hung hãn, mạnh bạo và giỏi chiến đấu, nếu họ không biết kiên cường giữ lấy tín ngưỡng Phật giáo để tự chế bản tánh hung tợn nguyên thuỷ của mình, có thể nói một ngày nào đó từ trên nóc nhà thế giới, họ sẽ khiến cho cả Châu Á và toàn cầu phải kinh hồn bạt vía với họ”.[11] Chính Songtsen Gampo là người đã chuyển hóa được tính cánh con người Tây Tạng bằng các nguyên tắc sống đạo đức dựa trên triết lý Phật giáo, vì thế công lao của Songtsen Gampo vô cùng to lớn đối với đất nước này.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thánh Nghiêm và Tịnh Hải, Lịch sử Phật giáo thế giới, Nguyễn Đức Sâm, Mai Xuân Hải, Nguyễn Tá Nhí, Thích Thanh Ninh, Nguyễn Văn Pháp, Nguyễn Quế Lai biên dịch, NXB.Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2008.

2. Pháp Sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch, Lịch sử Phật giáo Tây Tạng, NXB.Phương Đông, 2013.

3. C. Alexander Simpkins and Annellen Simpkins, Ánh sáng Mật tông con đường tâm linh Tây Tạng, Thích Minh Thành dịch, NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2014.

4. Trần Quang Thuận, Phật giáo trong dòng lịch svăn hoá Tây Tạng, NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2015.

5. Matthew T. Kapstein, Dẫn luận về Phật giáo Tây Tạng (Tibetan Buddhism A Very Short Introduction), NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2016.

 

 

 

 

 

 


 

[1] Pháp sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch, Lịch sử Phật giáo Tây Tạng, NXB.Phương Đông, 2013, tr.38-39.

[2] Tín ngưỡng Tinh linh là niềm tin rằng con người và tất cả loài động thực vật đều có linh hồn. 

[3] Văn Thành công chúa (文成公主, 628-680), được người Tạng biết tới như là Gyamoza (Hán ngữ là Nữ Thị/女氏, hoặc Giáp Mộc Tát Hán công chúa/甲木薩漢公主).

[4] Triều đại Yarlung, hay còn gọi là Thổ Phồn tiền Đế quốc, là một quốc gia cổ của người Tạng. Các vị vua của triều đại này mang nhiều tính thần thoại.

[5] C. Alexander Simpkins and Annellen Simpkins, Ánh sáng Mật tông con đường tâm linh Tây Tạng, Thích Minh Thành dịch, NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2014.

[6] Ashoka Đại Đế (A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Maurya, trị vì Ấn Độ từ năm 273-232 trước TL. Ông là một trong những hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng khi mới lên ngôi, ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác. Về sau ông quy y Tam bảo và có công lớn trong việc truyền bá Phật giáo.

[7] Mười điều Hiền thiện: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cướp; 3. Không tà tâm; 4. Không vọng ngữ; 5. Không nói hai lưỡi; 6. Không nói ác; 7. Không nói thêu dệt; 8. Không tham dục; 9. Không sân hận; 10 Không tà kiến.

[8] Mười sáu Yếu luật gồm: 1. Kính tin Phật; 2. Hiếu thuận cha mẹ; 3. Tôn kính các bậc cao đức; 4. Hòa mục thân tộc; 5. Giúp đỡ xóm giềng; 6. Nói lời trung tín; 7. Làm việc phải cẩn thận; 8. Chăm chỉ làm việc; 9. Tiền tài tri túc; 10. Phải biết báo đáp thù ân; 11. Phải trả nợ đúng ước hẹn; 12. Cân, đấu, đong đo phải công bằng; 13. Không sinh lòng đố kỵ; 14. Không nghe lời sàm ngôn; 15. Phải xét nét ngôn ngữ trước khi nói; 16. Phải xử sự khoan hậu.

[9] Trần Quang Thuận, Phật giáo trong dòng lịch sử, văn hóa Tây Tạng, NXB.Hồng Đức, Hà Nội, 2015.

[10] Thon-mi Sambhoa (Thôn-mễ-tang bố-trát) sinh ở Dbus, sống vào khoảng thế kỷ VII, là tể tướng dưới triều vua Sroibtsan-sgam-po. Năm 632, vâng mệnh vua, ông cùng với 16 người khác sang Ấn Độ học Phật học và âm vận học để chuẩn bị cho việc sáng tạo văn tự Tây tạng.

[11] Pháp sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí dịch, Lịch sử Phật giáo Tây Tạng, NXB.Phương Đông, 2013, tr.55-56.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle