Tìm hiểu nguyên nhân tạm dừng chức vụ Tăng cang của thiền sư Tiên Giác = Hải Tịnh
tim hieu nguyen nhan
TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN TẠM
DỪNG CHỨC VỤ TĂNG CANG
CỦA THIỀN SƯ TIÊN GIÁC -
HẢI TỊNH
Thích Tâm Giác
Tiểu sử
Thiền sư Tiên Giác - Hải Tịnh
Thiền
sư Tiên Giác
- Hải Tịnh, thế danh Nguyễn Tâm Đoan, sinh ngày 30
tháng 5 năm Mậu Thân (1788),
tại
huyện
Kiến An Thuận Đạo, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Thân phụ họ Nguyễn, tên gọi là
Cẩm, làm quan dưới triều Nguyễn
và
được
vua sắc phong tước
Hầu,
gọi là Nguyễn Hầu Cẩm, mất năm 64 tuổi;
thân mẫu là Nguyễn Thị Hiền, mất năm 84 tuổi. Cả
hai ông bà đều quy y Phật, là cư sĩ
của
chùa
Từ Ân
ở Gia Định
(nay là Thành phố Hồ Chí Minh).
Thiền sư Tiên Giác
- Hải Tịnh (Tế Giác - Quảng Châu)
là
đệ tử của
Thiền
sư Tổ Tông - Viên Quang (chùa Giác Lâm).
Ngài
là
một danh tăng uyên thâm Phật pháp. Năm 1822, ngài được phong làm Tăng cang tại
chùa Thiên Mụ. Sau khi giữ chức Tăng cang chùa Thiên
Mụ một thời gian thì ngài bị tạm cách chức. Đến năm 1841 (Tân Sửu), tức niên
hiệu Thiệu Trị thứ nhất, khi vua Thiệu Trị lên ngôi
ông
mới
cho
xét
lại nguyên nhân vụ án,
sau đó phục hồi chức Tăng cang
cho ngài
và
giao trụ trì chùa Long Quang và chùa Giác Hoàng đến năm 1842. Cũng trong năm này,
ngài trở về Nam Bộ ở chùa Từ Ân và đã khai mở nhiều trường Hương và trường Kỳ,
đồng thời chấn
chỉnh lại nghi lễ ứng phú tại Nam Bộ.
Vào
những năm cuối đời,
ngài đã biên tập bộ sách chữ Hán lần đầu tiên được khắc lại nguyên văn với tiêu
đề “Ngũ gia tông phái ký toàn tập”. Ngày mùng 8 tháng 11
năm Ất Hợi, Thiền sư Tiên Giác
-
Hải Tịnh viên tịch, thọ 88 tuổi, nhục thân của ngài được nhập tháp trong khuôn
viên chùa Giác Lâm. Bia
tháp
ghi: Lâm Tế gia phổ hiển
Tịnh công Tiên Giác
chi tháp
(臨濟家譜䣭淨公先覺之㙮);
và
long
vị trên bàn thờ Tổ ghi: Giác Lâm đường thượng Lâm Tế gia phổ tam thập thất
thế thượng Hải hạ Tịnh huý Tiên Giác đại lão tổ Hòa
thượng giác linh nghê tòa
chi vị; sinh
ư Mậu Thân niên ngũ ngoạt tam thập nhật chú sinh;
vãng
ư Ất Hợi niên thập nhất ngoạt sơ bát nhật thị tịch.
(覺林堂上臨濟家普三十七世上海下淨諱先覺大老祖和上覺靈貎座之位;
生於戊申年五月三十日註生;
往於乙亥年十一月初八日示寂).
Đặc biệt tại chùa Giác Viên và chùa Tây An (An Giang) có khắc tượng
ngài bằng gỗ
quý để tôn thờ.
Những
đệ tử xuất gia và cầu pháp
với ngài
Tiên Giác
-
Hải Tịnh
gồm có những vị
như:
Minh Vi
-
Mật Hạnh, Minh Khiêm
-
Hoằng Ân (hiệu Diệu Nghĩa), Minh Phương
-
Chơn Hương, Minh Mai
-
Phương Danh, Minh Chức - Huệ Thức, Minh Huyền - Chơn Giác, Minh Giám - Bửu Chơn,
Minh Thông - Hải Huệ, Minh Trữ - Quảng Huệ, Minh Hòa
-
Hoan Hỷ, Minh Thành
-
Phước Thạnh, Minh Trị - Thiện Bảo, Liễu Ngọc - Phổ Minh, Minh Huyên
-
Pháp Tạng (Phật Thầy Tây An), Minh Võ
-
Nhất Thừa…
Nguyên nhân
cách chức
Tăng cang của ngài
Tiên Giác -
Hải Tịnh
Ngài
Tiên Giác -
Hải Tịnh là vị Tăng
sĩ ở Nam Bộ được triều đình mời
ra làm
Tăng
cang tại chùa Thiên Mụ (Huế) để thuyết pháp cho hoàng gia.
Đây là một
vinh dự dành cho Tăng
sĩ ở vùng đất Nam Bộ. Tuy nhiên trong quá trình hoằng pháp tại chùa Thiên Mụ,
ngài đã gặp nhiều biến cố,
trong đó
biến cố có ảnh hưởng lớn nhất
đến
cuộc đời cũng như sự nghiệp hoằng pháp
của ngài
là
liên đới trách nhiệm trong việc quản lý Tăng sĩ không nghiêm
khiến
xảy ra án mạng trong khuôn viên chùa Thiên Mụ,
dẫn đến việc
triều đình nhà Nguyễn cách chức Tăng cang vào khoảng năm 1833-1835.
Trước khi bàn về
nguyên nhân cách chức
Tăng cang của ngài,
chúng ta
cần tìm
hiểu về
khái niệm
Tăng cang.
-
Khái niệm
Tăng cang
Thuật ngữ Tăng cang
(cương) hay Tăng quan có sự khác nhau về tên gọi, nhưng nội hàm khái niệm tương
đồng nhau và đó là một chức quan do nhà nước thiết
lập. Tại Ấn Độ cổ đại,
dưới
thời vua Āsoka (272-236
tr.TL),
triều đình
đã thành lập “Một
cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo gọi là Dharma Māhamātra. Quan chức Dharma
Māhamātra có thể là người thế tục và cũng có khả năng là người đại diện của các
tôn giáo”.
Cơ
quan này
có
chức năng bảo hộ việc phát triển tôn giáo và ngăn ngừa những xung đột giữa các
tôn giáo.
Tại các
nước tại
châu
Á, chẳng
hạn như ở Trung Quốc,
chế
độ Tăng quan bắt
đầu
khá
sớm:
“Chế
độ Tăng quan được bắt đầu từ thời đại Nguỵ, Tấn thuộc Nam Bắc triều, về sau,
trải qua bao triều đại đều thừa kế chế độ này, chỉ có tên gọi các chức vị Tăng
quan thì tùy triều đại mà có thay đổi”.
Chức
vụ này có
khi được
gọi là Tăng thống: “Tăng thống/僧統
(chức
vị), tên
quan chức trong giới
Tăng
Ni
do triều đình phong tặng cho nhà sư thống lĩnh Phật giáo, thống lĩnh mối đạo
trong cả nước”.
Phật giáo vào đời Diêu Tần phát triển mạnh, số lượng
Tăng
sĩ khá đông.
Đại
Tống
Tăng
sử lược
có chép: “殆姚秦之世。出家者十室而半”
(Đãi Diêu Tần chi thế, xuất gia thập thất nhi bán. Dịch:
Vào
đời Diêu Tần, mười nhà
thì có đến
năm nhà có người
xuất gia).
Vì
số lượng
Tăng
sĩ nhiều nên bắt đầu phát sinh những tệ trạng trong sinh hoạt.
Tại
Hàn Quốc,
chế độ Tăng quan “bắt đầu vào năm thứ 11 (550) đời vua Chân
Hưng
xứ Tân-la,
bấy giờ lập
một
vị Đại thư tỉnh, do Pháp sư An-tang
đảm nhiệm”.
Còn ở Nhật Bản, “Tăng quan cũng gọi là
Tăng cương, chế độ này bắt đầu vào năm Suy
Cổ
thiên hoàng 32 (624), ngài Quán
Lặc
làm Tăng chính, ngài An
Bộ
Đức
Tích
làm Tăng đô, ngài Hà
Đàm
Liên
làm Pháp đầu”.
Ở Việt Nam,
vào“năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng
lên ngôi, lúc ban định tước cấp cho các quan cũng định luôn giai phẩm cho hàng
Tăng
đạo có công giúp nước. Đứng đầu có chức Tăng thống trao cho Ngô Chân Lưu và ban
hiệu là Đại sư Khuông Việt”.
Như vậy,
Tăng thống là chức quan do triều đình sắc phong, có vai trò
trách nhiệm quản lý tất cả Tăng
sĩ trong cả nước, nhưng đến thời nhà Nguyễn không thấy đề cập đến Tăng thống mà
chỉ còn Tăng cang. Tăng cang ở triều
Nguyễn được hưởng
lương, cùng nhiều ân điển
khác. Tuy nhiên lại bó hẹp trong khuôn khổ quản lý chư
Tăng
tại một ngôi chùa do nhà vua hoặc quan
lại
xây
dựng chứ không còn trách nhiệm quản lý tất cả
Tăng
sĩ trên cả nước.
Theo
Từ điển Phật học Huệ Quang,
Tăng cang có nghĩa
như sau: “Tăng Cương
(僧網)
là những
vị Tăng
do triều đình bổ nhiệm
để
thống lãnh
Tăng
Ni
trong toàn quốc hoặc một phủ, châu, huyện...
để
hộ trì giáo pháp và giúp đỡ cho triều đình về mặt quản lý
tự viện. Vị Tăng
quan này có trách nhiệm kiểm soát xem
Tăng
Ni
có phạm giới hoặc có làm tròn phận sự hay không, đồng thời xem xét công việc
trong các tự viện”.
Theo
Phật
Quang
đại từ điển:
“Tăng Cương (僧綱)
cũng gọi là Tăng quan (僧官).
Nghĩa gốc là giềng mối của
Tăng
Ni,
từ đó chuyển thành tên chức quan tăng do nhà nước bổ nhiệm thống lãnh
Tăng
Ni
trên toàn quốc để hộ trì đạo pháp và giúp đỡ nhà nước về mặt quản lý
các chùa viện. Nhiệm vụ của vị quan tăng này là kiểm xét xem
Tăng
Ni
có phạm giới hoặc có làm tròn phận sự hay không, đồng thời giám sát công việc
của các chùa viện”.
Theo tác giả Lê
Xuân Thông thì
“Tăng cang là chức phẩm cao cấp nhất trong hàng giáo phẩm của Phật giáo Việt Nam
thời Nguyễn (1802
-
1945). Đó không phải là một sự tôn xưng của dân gian hay trong nội bộ bản thân
Phật giáo, mà là sự sắc chuẩn ban phong của triều đình như một sự ghi nhận, đánh
giá về đạo hạnh của một
thiền
tăng trên con đường giác ngộ chân lý giải thoát của Đức Như Lai. Người được
phong Tăng cang, bởi vậy, là một thiền sư đạo cao đức dày, là bậc long tượng
chốn thiền lâm”.
Như vậy, Tăng cang
(cương) hay Tăng quan được hiểu là một chức quan do triều đình lập ra với mục
đích quản lý hàng ngũ
Tăng sĩ
trong
cả nước. Vị Tăng
sĩ được sắc phong là người có đạo hạnh tu tập cao, có uy tín trong thiền gia và
là vị nghiêm trì giới luật.
-
Về nguyên nhân
cách chức
Tăng cang
của ngài Tiên Giác - Hải Tịnh
Việc cách chức Tăng
cang của ngài
Tiên Giác -
Hải Tịnh xảy ra
vào thời
điểm
nào, nguyên
nhân là gì, nội
hàm sự việc như thế nào
thì cho đến
nay vẫn chưa được làm rõ. Theo nhận định của Trần
Hồng Liên trong tác phẩm Ngũ gia
tông
ký toàn
tập
và
Chư tiền bối Tổ sư truyền thừa tại
tổ
đình Giác Lâm
thì: “Cho đến nay, chúng ta chưa có đủ tài liệu để khẳng định về việc cách
chức này”.
Về việc này,
chúng ta cần dựa
vào tư liệu hiện
có từ
thời nhà Nguyễn để làm rõ nguyên nhân.
Trước
hết,
về thời gian cách chức thì chưa rõ năm nào, nhưng sự kiện này được ghi
lại
trong Đại Nam
thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn vào thời vua Minh Mạng (tức
năm Kỷ Hợi thứ 20 [1839]).
Như vậy
chúng ta
có thể suy ra rằng
sự kiện này có thể xảy ra trước năm 1839
hoặc trong năm 1839. Theo tác giả Trần Hồng Liên, vấn đề cách chức Tăng cang nằm
trong giai đoạn biến cố chính trị ở Gia Định: “Việc
bị cách chức Tăng cang và sau đó được phục hồi lại vào năm Thiệu Trị nguyên
niên, thuộc giai đoạn có biến cố chính trị lớn ở Gia Định, do Lê văn Khôi khởi
binh chống lại triều đình Huế”.
Hòa
thượng Thích Trí Quảng cũng
cho rằng: “Năm 1833, con nuôi của
Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi loạn, chiếm thành Phiên An (Saigon), chống lại
triều đình Huế. Ngài Tăng cang Tế Giác là người ở Gia Định nên bị nghi ngờ có
liên hệ với loạn quân; vì vậy, triều đình đã cách chức ngài”.
Như vậy,
theo những tác giả này, việc cách chức Tăng cang của ngài
Tiên Giác - Hải Tịnh
là do
bối cảnh chính trị xã hội ở Gia Định
gây nên.
Ngoài
hai nhận định trên
còn
có
ý kiến
cho rằng ngài phạm vào giới luật nhà Phật nên bị cách chức.
Để rõ hơn về vấn đề
cách chức Tăng cang của
ngài
Tiên Giác -
Hải Tịnh, chúng ta cần
dựa vào
những thông tin
được ghi chép trong Quốc sử quán triều Nguyễn như:
Đại
Nam thực lục,
Châu bản triều Nguyễn,
Hoàng Việt
luật
lệ...
Trong
Đại Nam thực lục đệ nhị kỷ - Quyển CCVII - Thực lục về Thánh Tổ Nhân
Hoàng Đế có ghi như sau: “Sư chùa Thiên Mụ có tên Nguyễn Văn Huấn vì ghen
giết người. Bộ Hình và viện Đô sát xét hỏi qua một năm không khám phá ra manh
mối. Đến nay Khoa đạo là Nguyễn Sĩ Đăng, Lê Tập bí mật đi dò xét tìm được tình
trạng, đều thưởng cho mỗi người 10 lạng bạc và gia một cấp. Khi án giao xuống
đình thần xét, Huấn bị xử trảm hậu; sư trưởng Nguyễn Tâm Đoan, cách bỏ chức trụ
trì chuẩn bắt phải làm việc nặng nhọc tại chùa ấy”.
Vấn đề xảy ra án mạng này cũng được
ghi trong
Châu bản triều Nguyễn: Vào
ngày 04 tháng 4 năm Tự Đức thứ 2, các ngự sử công kích đạo Phật, xin đuổi sư
tăng về tục do Thự Lạng Bằng đạo giám sát ngự sử thần Trần Văn Ý, Thự Nam Ngãi
đạo giám sát ngự sử thần Nguyễn Văn Tố đẳng cẩn tấu: “…Tức như Minh Mạng niên
gian, phát xuất Thiên Mụ tự tăng Nguyễn Văn Huấn hướng nhân nữ tử điều hý,
nhân nhi đố sát Nguyễn Văn Ưng tễ mạng nhất án thù khả ố dã...”
(Dịch:
Như khoảng năm Minh Mạng đã xảy ra vụ án sư chùa Thiên Mụ là Nguyễn Văn Huấn
giỡn cợt chọc ghẹo con gái nhà người khiến ghen tuông giết chết Nguyễn Văn Ưng
thật là khả ố).
Theo
Châu bản triều Nguyễn,
những
nhà Nho công kích Phật giáo đã lấy vụ án ở chùa Thiên Mụ (năm Minh Mạng) làm
cớ
tấu trình lên vua
nhằm đề nghị
đuổi Tăng sĩ về tục
để
giảm bớt chi phí chu cấp hàng tháng. Họ cho rằng làm như vậy là “Trừng trị
được bọn biếng nhác, nhờ đó đồng nhất đạo đức phong tục”.
Qua
những
trích dẫn
trên, chúng ta có thể
thấy
việc cách chức Tăng cang của
ngài
Tiên Giác
-
Hải Tịnh là do bị liên đới trách nhiệm trong vụ án mạng tại chùa Thiên Mụ (Huế).
Nguyên nhân
là
do
Nguyễn Văn Huấn,
một vị
tu
sĩ,
vì ghen tuông đã phạm tội sát nhân.
Vào thời điểm
xảy ra án mạng Tổ Tiên Giác
-
Hải Tịnh là người chịu trách nhiệm quản lý việc sinh hoạt của chư Tăng tại chùa
Thiên Mụ. Cũng theo tư liệu có được thì vụ án xảy ra trong khuôn viên chùa,
nhưng Hình Bộ
và Viện Đô
sát
không làm sáng tỏ, sau một năm thì Khoa đạo Nguyễn Sĩ Đăng và Lê Tập mới tìm ra
được nguyên nhân.
Sau
đó Nguyễn Văn Huấn
bị
xử trảm hậu còn sư trưởng Nguyễn Tâm Đoan (tức
ngài
Tiên Giác
-
Hải Tịnh) bị cách chức Tăng cang và bắt làm việc nặng tại chùa.
Ở đây chúng ta
cần tìm
hiểu thêm những
nguyên nhân
có thể đưa đến
việc cách chức Tăng cang. Và về điều
này, chúng ta cần dựa vào Hoàng việt
luật
lệ
(Luật
Gia Long).
Vào thời nhà
Nguyễn, triều đình đã
ban hành một bộ
luật
dựa
trên quan điểm của
Nho giáo và ở đó
nhiều
quy định
áp dụng cho Tăng sĩ
được đưa ra,
trong đó có những
luật
lệ về hình phạt áp dụng cho Tăng sĩ khi phạm tội.
Ví dụ,
trong Hoàng Việt Luật lệ có ghi
rằng
nếu Tăng sĩ phạm tội thì hình phạt nặng hơn dân thường: “Phàm để tang cha mẹ
và chồng chết, nếu
Tăng
sĩ, Đạo
sĩ, nữ quan phạm gian thì tăng hai bậc tội người thường phạm gian, xử tội ấy
theo người thường phạm gian”.
Và
nếu Tăng
sĩ
cưới thê thiếp hay
đoạn tuyệt cha mẹ cũng
bị xử phạt
nặng: “Phàm Tăng, Đạo cưới thê thiếp thì phạt 80 trượng, hồi tục… Trụ trì
chùa chiền biết mà không báo lên thì cùng tội, liên lụy vì người… Tăng,
Đạo phạm gian, tăng hai tội”.
Bộ luật
còn quy định thêm: “Tăng đạo quan,
Tăng
nhân, Đạo
sĩ phạm vào kỹ
nữ, rượu thịt thì đều phạt trăm trượng, trả về làm dân”.
Trong
Hoàng Việt
luật
lệ,
quyển 14
nói
về Hình
luật,
phần Nhân mạng điều thứ 09
- Đấu ẩu cập
cố sát nhân (Đánh lộn và cố ý giết người) ghi: “Phàm đánh lộn giết người thì
không cần biết bằng tay chân, vật gì khác như dao mác… đều xử treo cổ giam chờ”.
Đây là luật lệ
giành cho tất cả
người dân trong cả nước,
nhưng
riêng đối với Tăng
sĩ thì triều đình xử tội nặng hơn dân thường, do vậy khi Nguyễn Văn Huấn phạm
vào tội sát thì bị xử trảm hậu. Còn đối với Nguyễn Tâm Đoan (tức
ngài
Tiên Giác -
Hải Tịnh) thì chịu trách nhiệm
“Trụ
trì chùa chiền biết mà không báo lên thì cùng tội, liên lụy vì người”,
nên triều đình đã cách chức Tăng cang của
ngài.
Những hình phạt
dành
cho Tăng sĩ không
chỉ có ở
nước ta. Tại
Trung Quốc
vào thời Bắc
Ngụy, triều
vua Tuyên Vũ
Đế (483-515), cũng
đã
quy định
hình phạt dành cho
Tăng sĩ phạm tội
sát nhân, như
được ghi trong Phật Tổ thống kỷ, quyển 38: “景明二年。詔僧犯殺人依俗格斷。餘犯悉付昭玄都統。以內律僧制判之”.
(Dịch:
Niên hiệu Cảnh Minh thứ 2 (501) ban chiếu Tăng nhân phạm tội giết người, thì y
cứ theo luật của thế tục mà xét xử. Ngoài ra phạm tội khác thì giao cho Đô Thống
Chiêu Huyền, dùng giới luật của Tăng đã chế định mà phân xử cho phù hợp).
Dựa
vào
Hoàng Việt
luật
lệ của
Triều Nguyễn,
chúng ta cũng có thể
bác bỏ
ý kiến
cho rằng ngài
Tiên Giác - Hải Tịnh
đã phạm giới luật
nhà Phật nên bị cách chức. Giả thuyết được đặt ra
là,
nếu như ngài
Tiên Giác - Hải Tịnh
phạm giới luật nhà
Phật như “kỹ
nữ, rượu thịt…”
thì chắc chắn sau
khi bị
cách chức
ngài
sẽ
bị đuổi
về làm dân thường như luật đã định,
thế nhưng ở đây
ngài chỉ bị
tạm thời dừng chức
vụ Tăng cang. Điều này
như vậy cho thấy rằng
bản thân ngài không phạm những tội như trên. Cũng dựa vào
những ghi chép
trong Châu bản triều Nguyễn,
ta thấy
rằng
ngài là một vị tinh
trì giới luật,
như trong Tờ
dụ
ngày 16 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 2 ghi: “Tư cứ Nguyễn Văn Thường bẩm khai
thừa dĩ hội đồng chư sơn tự tăng tái tam lân tuyển, duy hữu hiện sung Long Quang
tự tăng cang Nguyễn Tâm Đoan, am tường kinh giáo, giới luật tinh trì, thị thiền
gia mẫn cán để nhân, khả sung Giác Hoàng tự
Tăng
can”.
(Dịch: Nay theo khai bẩm của Nguyễn Văn Thường thì hội đồng chư sơn các
chùa đã
tuyển chọn hai ba
lần nhưng chỉ có Nguyễn Tâm Đoan hiện sung chức
Tăng
cang chùa Long Quang là người am tường kinh giáo, giới luật tinh trì, quả là
người mẫn cán trong thiền gia, có thể chọn sung làm
Tăng
cang chùa Giác Hoàng).
Qua những luận cứ
và luận chứng đã được trình bày,
chúng ta
thấy rằng
ngài
Tiên Giác - Hải Tịnh
bị cách chức là
vì liên đới trách nhiệm
do
không quản lý nghiêm Tăng sĩ trong tự viện dẫn đến
xảy ra
án mạng
tại chùa.
Còn về
thời điểm
phục hồi chức Tăng cang cho ngài,
các tác giả đều có
chung ý kiến là
sau khi vua Thiệu Trị lên ngôi. Theo
Tờ
dụ
ngày 16 tháng 3 năm Thiệu Trị nguyên niên (1841)
thì:
“Nguyên Thiên Mụ tự trụ trì Nguyễn Tâm Đoan tiền nhân can án hoạch cữu cách
khứ Tăng
cang, chuẩn vu cai tự lực dịch bổ quá. Cận lai sảo tri úy hối thống cải tiền
phi, Nguyễn Tâm Đoan trước gia ân khoan miễn, do Lễ bộ cấp hoàn
Tăng
cang văn bằng nhất thông, nhưng chuẩn vu cai tự ứng vụ, sĩ hữu chư quan tự trụ
trì chi khuyết tức hành sung bổ. Khâm thử”.
(Dịch:
Nguyên trụ trì chùa Thiên Mụ là Nguyễn Tâm Đoan, trước nhân can án phạm lỗi bị
cách chức Tăng
cang nhưng chuẩn cho ở chùa ấy làm công việc nặng nhọc để chuộc tội, gần đây đã
biết xấu hổ
ăn năn lỗi trước, truyền gia ân khoan miễn cho Nguyễn Tâm Đoan. Bộ Lễ hãy cấp
hoàn một văn bằng Tăng
cang và vẫn chuẩn cho ở tại chùa này làm việc chờ khi có chùa quan nào khuyết
trụ trì sẽ bổ sung. Khâm thử).