Một số điểm tương đồng và dị biệt về nghiệp giữa Kỳ na giáo và Phật giáo
MỘT SỐ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆ
MỘT SỐ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ
BIỆT VỀ NGHIỆP
GIỮA KỲ-NA GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
Trung
Thiện
Những suy nghiệm về bản ngã con người được người Ấn quan tâm từ
rất sớm. Đứng trước sự bao la của đất trời, con người cảm nghiệm sự nhỏ bé mong
manh của thân phận. Những suy tư về sự sống và cái chết, hạnh phúc và khổ đau,
đời này và đời sau, về mục đích tối hậu của con người... luôn ngự trị, thôi thúc
họ tìm đến những chân tri, mong cầu những giải pháp để giải thoát.
Chủ trương về nghiệp được các nhà tôn giáo xây
dựng nên nhằm đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho những vấn đề này.
Danh từ nghiệp (karma)
được đề cập nhiều trong các luận giải về
tư tưởng triết học
và tôn giáo Ấn Độ. Tuy nhiên,
chúng ta khó
tìm thấy trong tôn
giáo Veda cổ đại khái niệm nghiệp
hay nghiệp báo
như được hiểu kể từ thời xuất hiện của Phật
giáo. Đến khi xuất hiện các Upanishad
dưới dạng văn bản, ý niệm về
nghiệp mới được xác lập như một học
thuyết liên
hệ đến tái sinh và giải
thoát. Song, đó chỉ là manh nha ý tưởng về
một đấng Phạm thiên hữu ngã, chưa có ý
niệm gì về luân hồi, về nghiệp hay
nghiệp quả.
Đến giai đoạn Kỳ-na
giáo (Jainism)
và Phật giáo, học thuyết về nghiệp được hình thành rõ
rệt. Kỳ-na giáo chủ trương không phát
triển thành hệ thống một học thuyết siêu hình. Thay vào đó, họ
xây dựng
một hệ thống triết lý
không những khẳng định giá trị đạo đức của nghiệp
mà còn vạch ra con đường giải thoát khỏi nghiệp bằng
thiền định, niềm tin, sự nhận thức và trạng thái đúng đắn
hoàn hảo. Khổ hạnh cũng là một phương pháp giúp họ thoát khỏi những ràng buộc
của thân thể, vật chất. Phật giáo chọn
cho mình một hướng đi khác. Đó là sự chứng nghiệm những tư tưởng về
nghiệp
bằng thực nghiệm, bằng thuần túy kinh nghiệm ở nội tâm mình thay vì suy luận.
Tuy nhiên, những quan điểm và nhận thức về
nghiệp của Kỳ-na giáo và Phật giáo không dừng lại ở đó mà
còn phát triển trên nhiều phương diện, tạo nên những giá trị riêng của mỗi tôn
giáo này.
Tài liệu chính được sử dụng để làm
rõ những quan điểm về nghiệp của Kỳ-na giáo
trong bài viết này chủ yếu trích dẫn từ Tattārthādhigama
Sūtra
(Kinh Những phạm trù nhận thức) là một trong ba bản kinh
chính yếu nhất của Kỳ-na giáo. Hai cuốn còn lại là
Syadvādamānjarī và Siddhaena Divākara anmati -
Tarka. Trong đó, Syadvā-damānjarī
chú giải về ba mươi hai đoạn thơ trong tác phẩm
Aryayoga-vyavaccheda-dvātrimsikā của nhà thông thái Kỳ-na giáo, Hemacandra
(1088-1172). Syadvādamānjarī được xem như một phần kinh điển gốc của
Kỳ-na bởi tính giá trị của nó trong việc giải thích cơ sở của những học thuyết
logic cơ bản của tôn giáo này.
Chủ trương đấng Sáng tạo
Kỳ-na giáo và Phật giáo xuất hiện khi nền tảng triết lý
Veda với việc thờ cúng các hiện
tượng tự nhiên của nó không còn hấp dẫn như ở thời kỳ
đầu. Giai cấp Bà-la-môn đang dần đánh mất nhiều uy thế của mình, những tầng lớp
trí thức không còn thỏa mãn với những niềm tin tôn giáo thô sơ bên ngoài mà
chúng thần linh hóa hiện tượng tự nhiên. Bên cạnh việc
cùng phủ nhận tính chất thần thánh của Veda, bác bỏ niềm tin tìm sự giải
thoát qua nghi thức cúng tế, Kỳ-na giáo và Phật giáo còn gặp nhau ở quan điểm
rằng không có một đấng Thượng đế hay Thần linh sáng tạo và chi phối toàn
bộ thế giới.
Hoàn toàn khác với Ấn giáo, Kỳ-na giáo không có những cái tuyệt
đối, không có sự hiệp nhất sau cùng của Tiểu ngã (Atman) vào Ðại ngã (Brahman)
hằng cửu.
Thay vào đó, Kỳ-na giáo xem giải thoát sau cùng là sự thừa nhận tinh thần mới là
một thực tại tối hậu. Nói cách khác, Kỳ-na giáo phủ nhận sự tồn tại của một vị
thần sáng tạo thế giới. Họ lập luận rằng,
chúng ta không
thể nào nhận biết được thần hoặc Thượng
đế bởi con người nói có Thượng
đế tồn tại là do từ suy
luận mà ra.
Nếu nói thần là vạn năng, thế thì, tất cả vật
thể đều là sáng tạo của thần. Tuy
nhiên, những sự vật mà chúng ta thấy
hàng ngày đều là nhân tạo chứ không phải thần
tạo. Từ đó, tín đồ Kỳ-na giáo lấy một nhân cách toàn thiện, đại giác
thay thế cho Thượng đế của thần giáo và cầu nguyện với nhân cách đó để xin chỉ
cho họ lối thoát khỏi đường mê.
Phật giáo cũng phủ nhận sự hiện hữu của một đấng Sáng tạo. Nguồn
gốc về ý niệm đạo lý hay
quan điểm về Thượng
đế, theo Phật giáo đều bắt nguồn từ sự sợ hãi
và thất vọng. Đức Phật từng nói:
“Loài người sợ hoảng hốt
Tìm nhiều chỗ quy y
Hoặc rừng rậm núi non
Hoặc vườn cây đền tháp.” (Kinh
Pháp cú -
188)
Sự hãi hùng,
bất an trước những hiện tượng thiên nhiên, dã thú, bệnh tật... khiến
con người tự tạo ra những tư
tưởng thần thánh để làm chỗ dựa tinh
thần, khơi dậy lòng can đảm khi
lâm nguy và để an ủi
tự thân khi hoàn cảnh trở nên xấu đi.
Đức Phật tuyệt nhiên không chấp nhận có một đấng Tạo hóa, bất luận dưới một hình
thức, một năng lực hay một chúng sanh nào. “Nếu tất cả những cảm thọ của con
người, dầu hạnh phúc hay đau khổ, đều dó một đấng Tối cao tạo nên... Như vậy,
chính do ý muốn và sự tác tạo của đấng Tối cao mà con người trở thành sát nhân,
trộm cắp, tà dâm... và hiểu biết sai lầm. Do đó, nếu chủ trương rằng có một đấng
Thần linh là nguồn gốc của tất cả những điều ấy, con người sẽ không còn có ý
muốn, hoặc cố gắng, cũng không thấy có sự cần thiết để làm, hoặc tránh không làm
hành động ấy.”
Như vậy, Phật giáo phủ nhận một đấng quyền năng, vĩnh cửu tạo ra vạn vật, khẳng
định con người là trung tâm của vũ
trụ, là chủ thể của chính mình, không có một sức mạnh quyền năng có thể quyết
định số phận của con người.
Một điều đáng chú ý là, mặc dù Kỳ-na giáo
phủ nhận Thượng đế nhưng không từ chối bản chất thiêng liêng của thánh thần.
Mỗi linh hồn giải thoát là một vị thánh. Tín đồ Kỳ-na giáo sau khi mời Thượng
đế ra khỏi thiên đường, bèn đưa hết thảy các vị thánh
trong sử sách hay trong huyền thoại của họ vào. Rồi họ
cũng tổ chức các tế lễ, cũng dốc lòng thờ phụng những vị thánh đó, chỉ khác là
họ coi các ngài cũng chết, cũng luân hồi, chứ không phải là những đấng Sáng tạo
và làm chủ vũ trụ.
Có thể nói, sự phủ nhận vai trò và hiện hữu của Thượng đế hay
đấng Sáng tạo của Kỳ-na giáo và Phật giáo là một bước ngoặt quan trọng
trong tiến trình phát triển tư tưởng triết học, tôn giáo của Ấn Độ. Nhờ đó, con
người có thể nhận thức được những giá trị của mình ngay trong đời sống hiện tại,
tự mình làm chủ vận mệnh của mình và chịu trách nhiệm cho chính những hành động
của mình mà không chịu sự áp đặt hay cứu rỗi của đấng thần linh nào. Tuy nhiên,
việc đưa Thượng đế ra khỏi ý niệm đã từng thống trị con người xứ Ấn trong nhiều
thiên kỷ, đòi hỏi Kỳ-na giáo hay Phật giáo phải làm cách
nào để lấp đầy khoảng trống đó. Giáo lý nghiệp mà hai tôn
giáo này xây dựng nên không những thay thế cho vị trí của Thượng đế mà còn hướng
con người đến với những giá trị thực sự của cuộc sống.
Quan điểm về nghiệp
Nghiệp ở Kỳ-na giáo được hiểu là vật chất hay bụi nghiệp. Con
người không thể tránh khỏi nghiệp, vì nghiệp
được tin là có mặt khắp mọi nơi và có kết quả xấu bất kể có chủ ý hay không.
Nghiệp là sợi dây liên kết linh hồn với vật chất. Theo Kỳ-na
giáo, toàn bộ thế giới đều được xây dựng trên những bản chất chính, không do ai
tạo ra và không phụ thuộc vào bất cứ điều gì. Đó là linh hồn (jiva)
và tất cả những gì không phải linh hồn (ajiva). “Ajiva là phương tiện
vận động (dharma), đứng im (adharma), không gian (ākās’a) và vật chất
(pudgala).”
Ajiva cũng có thể chia thành hai dạng chính là những cái không có hình dạng
(arūpa) và những cái có hình dạng (rūpa), như là pudgala hay vật
chất.
Linh hồn là thực thể thuần khiết, toàn năng, tồn tại vĩnh viễn
và bất diệt. “Bản chất của linh hồn là sự sống, khả năng được giải phóng và
không có khả năng thích hợp được giải phóng.”
Tuy nhiên, khả năng của linh hồn bị hạn chế bởi những thân xác cụ thể với
những tình cảm, ý chí, dục vọng của thể xác mà linh hồn sống trong đó. Kỳ-na
giáo cho rằng, chính kết quả những hành động đó của thể xác ảnh hưởng đến linh
hồn là nghiệp báo.
Điều này được giải thích rằng, khi linh hồn bị khuấy động và bộc
phát ngang qua hành động, lời nói hay suy nghĩ, nó gây nên sự chấn động cho môi
trường xung quanh khiến các phân tử vật chất hay bụi nghiệp tạo thành dòng chảy
gọi là nghiệp lậu (karmāsrava). Các bụi nghiệp theo đó bám vào linh hồn
rồi trùm kín linh hồn khiến nó trở thành ô nhiễm và do đó phải chịu luân chuyển
trong luân hồi. Nếu nghiệp mới không được tích lũy, nghiệp cũ được cạo sạch dần,
cho đến khi linh hồn trở về trạng thái nguyên thủy thuần khiết của nó, bấy giờ
linh hồn được nói là đã giải thoát (moksa). Trạng thái giải thoát đó đối
với các tín đồ Kỳ-na giáo là trạng thái đặc biệt của linh
hồn như là hoàn toàn thanh tịnh, hiểu biết hoàn hảo và năng lực hoàn hảo. Điều
đó được thực hiện bằng hai cách. Một là
chế ngự (samvara),
tức là không để
cho sự vật mới tiếp tục rót vào trong
linh hồn nữa. Hai là tĩnh lặng (nirjara),
tức là tống hết những sự vật đã trộn lẫn vào linh hồn ra
ngoài.
Như vậy, quan điểm của Kỳ-na giáo cho rằng nghiệp
là sự trói buộc do sự kết hợp của linh hồn với vật chất, còn giải thoát nghĩa là
tách vật chất ra khỏi linh hồn. Đó cũng là câu trả lời vì sao các giáo đồ Kỳ-na
giáo thực hành lối khổ hạnh ép xác.
Phật giáo không đồng quan điểm về nghiệp
của Kỳ-na giáo. Đức Phật định nghĩa nghiệp như sau:
“Này các Tỷ-kheo, Như Lai xác nhận rằng chính Tư (cố
ý, cetanā) là nghiệp. Do có ý muốn mới có hành động bằng
thân, khẩu hay ý”.
Nói cách khác, nghiệp là hành động có tác ý (cetanā)
của thân, khẩu, ý. Các hành động không có tác ý, không chủ ý chỉ là những hành
động đơn thuần mà không được gọi là nghiệp. Chính sự cố ý
bao gồm động cơ để làm một hành động nào đó, mục đích tức thời của nó nhắm đến
một đối tượng cụ thể như là một phần để thỏa mãn động cơ,
tâm bị thôi thúc phải hành động ngay. Để hành động phát sinh ra nghiệp
quả, phải có sự cố ý. Do đó, giẫm đạp kiến một cách vô tình lúc đi đứng không
tạo ra nghiệp quả như quan điểm của Kỳ-na giáo.
Chủ trương “định mệnh”
Kỳ-na giáo cho rằng linh hồn (jiva)
là bất tử và có khả năng toàn tri nhưng trong thế giới này, linh hồn ấy dường
như không được như thế vì nó bị giới hạn bởi hình dạng vật chất, nghĩa là thân
xác, và nghiệp
báo của nó. Tattārthādhigama Sūtra
ghi rằng: “Những linh hồn
cũng là các thực thể. Các thực thể là vĩnh cửu trong bản chất của chúng, và cùng
với thời gian (kala) chúng được xác định là những bộ phận cấu thành duy nhất của
vũ trụ và là đối tượng của xúc
giác, vị giác, khứu giác và thị giác.”
Đồng thời, nghiệp báo được tạo ra
khi linh hồn hợp nhất hay đồng hóa với vật chất. Hay nói cách khác, cuộc sống
của chúng ta ở hiện tại bị chi phối bởi chính linh hồn của chúng ta. Những gì mà
con người đang đón nhận đều là sự quyết định của nghiệp
báo.
Như vậy, nghiệp báo của Kỳ-na giáo mang tính chất định
mệnh. Nghĩa là những gì chúng ta đang đón nhận ở hiện tại, dù hạnh phúc hay khổ
đau, giàu sang hay nghèo hèn... đều là kết quả của nghiệp
quá khứ mà chúng ta không thể thay đổi được. Chúng ta chỉ có thể chấp nhận số
mệnh đã an bày đó và cố gắng sống đời sống lương thiện để kiếp sau hưởng được
quả báo an vui, hạnh phúc.
Giáo lý về nghiệp
của Phật giáo không giải thích quan niệm định mệnh như vậy. Phật giáo không nhìn
nhận một linh hồn trường cửu, được tạo nên một cách ngẫu nhiên và độc đoán chi
phối mọi hoàn cảnh đời sống con người. Theo giáo lý nghiệp
báo của Phật giáo, chúng ta không nhất định phải bị trói buộc vào
hoàn cảnh nào, vì nghiệp báo không phải là số mệnh, cũng
không phải tiền định do một oai lực huyền bí nào đã định đoạt cho ta một cách
bất khả kháng. Đức
Phật cũng không chấp nhận chủ trương định mệnh của nghiệp
quá khứ. Bởi vì, nếu tất cả những gì trong hiện
tại cũng đều do nghiệp quá khứ quy định,
thì
những tội lỗi sát
sinh, trộm
cắp... đều do nghiệp quá khứ sai khiến chứ hiện tại không có trách nhiệm
gì. Thế thì, chúng ta sẽ không còn sự lựa chọn
đây là việc nên làm, đây là việc không nên làm. Theo đó, con người sẽ
trở nên vô nghĩa, thụ
động.
Mặc dù chúng ta phải chịu trách nhiệm cho chính những hành động
của mình “Ta là chủ nhân của nghiệp... phàm
nghiệp nào ta đã làm ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”,
nhưng chúng ta hoàn toàn có đủ khả năng để
chuyển hóa nghiệp bằng nhận thức và công phu tu tập. Hạnh
phúc hay khổ đau đều do ta tự quyết định lấy, không một thế lực nào có thể can
dự vào. “Lành dữ bởi ta, ô
nhiễm cũng bởi ta; làm lành bởi ta, thanh tịnh cũng
bởi ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta, chứ không
ai có thể thanh tịnh cho ai được.”
(Kinh Pháp cú
- 165)
Đức Phật giải thích rằng, đối với một người không có sự tu tập,
không gieo hạt giống phước đức, một điều ác nhỏ có thể khiến
họ bị đọa lạc vào cảnh giới khổ đau. Điều đó như bỏ nắm muối vào ly nước, ly
nước sẽ quá mặn và không thể uống được. Đối với người có sự tu tập, trì giới và
gieo trồng phước đức, một hành động tương tự như vậy sẽ
khiến họ thọ cái quả nhẹ hơn rất nhiều ngay trong đời này. Trong trường hợp nếu
phải chịu quả báo ở đời tương lai, chỉ như bỏ nắm muối vào sông Hằng. Nước sông
Hằng không phải vì nắm muối mà mặn đến nỗi không thể uống được.
Như vậy, thuyết nghiệp của Phật giáo
không chấp nhập thuyết định mệnh hay tiền định về nghiệp
của Kỳ-na giáo. Quan điểm về nghiệp nhấn mạnh hành động
của con người có tầm rất quan trọng cùng kết quả của nó, tức tác nhân phải chịu
trách nhiệm về hành động họ tạo ra. Phật dạy con người có quyền tự do lựa chọn,
hành động hiện tại của họ không phải là kết quả của những hành động trong đời
trước, không phải mọi thứ xảy đến với con người đều được xem là do nghiệp.
Quan điểm về hành vi tạo nghiệp
Tuy nhiên, nhìn nhận ở một góc độ khác, giáo lý
về nghiệp của Kỳ-na giáo cũng mang nhiều nét tiến bộ,
vì nó giúp con người sống có đạo đức và hướng thiện hơn.
Tattārthādhigama Sūtra có đưa ra một số quả báo mà
chúng ta có thể nhận được nếu trong đời sống hiện tại biết phấn đấu sống đời
sống thiện lương, giàu lòng yêu thương và đức hạnh.
Kỳ-na giáo cho rằng trong ba nghiệp, thân nghiệp là nghiệp quan
trọng nhất, nhưng Phật giáo lại cho rằng trong ba nghiệp, ý nghiệp là nghiệp
quan trọng. Sự khác biệt này được tìm thấy trong Tiểu kinh khổ uẩn (Cūḷa-dukkhandha
Sutta) và kinh Ưu-ba-li (Upāli-sutta) của
Trung bộ kinh. Hai
bài kinh ghi lại cuộc đối thoại của Dīghatapassī tức đệ tử của Nigaṇṭha
Nāṭaputta
hay Mahavira -
giáo chủ của Kỳ-na giáo,
với Đức Phật. Kinh Upāli
mở đầu bằng đối thoại giữa Đức Phật và Dīghatapassī.
Đức Phật hỏi Dīghatapassī: “Nigaṇṭha
Nāṭaputta
thiết lập bao nhiêu nghiệp cho sự tạo tác ác nghiệp và cho sự chuyển khởi ác
nghiệp?” Dīghatapassī trả lời rằng: “Nigaṇṭha
Nāṭaputta
không có thông lệ chủ trương nghiệp, nghiệp, mà có tập quán nói về phạt (daṇḍa).
Nigaṇṭha
Nāṭaputta
có thông lệ chủ trương phạt, phạt. Đó là thân phạt, ngữ phạt và ý phạt... Ba
loại phạt này khác nhau, trong đó thân phạt được cho là nghiêm trọng nhất.”
Ý nghĩa “thân phạt” của Nigaṇṭha
Nāṭaputta
được giải thích rõ trong Tiểu kinh khổ uẩn. Nigaṇṭha
Nāṭaputta
trình bày quan điểm của mình như sau: “Nếu xưa kia ngươi có làm ác
nghiệp, hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này... Như vậy,
chính nhờ sự thiêu đốt, sự chấm dứt các nghiệp trong quá khứ, sự không làm các
nghiệp mới, do vậy không có sự tiếp tục trong tương lai...”
Họ cũng khẳng định “Hạnh phúc không thể thành tựu nhờ hạnh phúc, hạnh phúc
phải thành tựu nhờ đau khổ”. Từ đó cho thấy, Kỳ-na giáo chủ trương khổ hạnh
ép xác là cách duy nhất để diệt trừ ác nghiệp, khổ đau trong quá khứ và là điều
kiện để đạt được giải thoát an vui. Phật giáo không chủ trương như vậy.
Đức Phật chỉ bày chúng sinh con đường thoát khỏi biển khổ
luân hồi, hưởng được hạnh phúc và giải thoát đó là thành tựu giới, thành tựu
thiền định và thành tựu trí tuệ.
Như vậy, có nhiều sự khác nhau giữa Kỳ-na
giáo và Phật giáo liên quan đến hành vi tạo nghiệp.
Thứ nhất, Kỳ-na giáo cho rằng
trong ba nghiệp, thân nghiệp là nhân tố quan trọng nhất và tu tập khổ hạnh là
phương pháp được hành trì để làm tiêu mòn những ác nghiệp trong quá khứ hướng
đến giác ngộ, giải thoát. Ngược lại, Phật giáo khẳng định ý nghiệp là nghiệp
quan trọng, bởi vì:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo. |
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng, không rời hình.”
(Kinh Pháp cú
- 1, 2) |
Lời nói hay hành động của thân là sự thừa hành của ý nghĩ. Với
một ý nghĩ thiện sẽ đưa đến một hành động hay lời nói thiện, dó đó mà nhận được
quả báo thiện, đem lại hạnh phúc và an lành cho mình và người khác. Ngược lại,
với một ý nghĩ xấu sẽ đưa đến một hành động hay lời nói xấu, do đó mà nhận quả
báo xấu, tạo ra những đau khổ cho mình và người khác.
Thứ hai, Sự hành hạ về thể xác
theo quan điểm của Kỳ-na giáo, Phật giáo cho điều đó không thể đem đến sự giải
thoát mà chỉ là sự hành hạ vô ích, đem lại khổ đau và không đem lại trí tuệ giác
ngộ. Chính Đức Phật đã từng thực tập phương pháp khổ hạnh ép xác này một cách
nghiêm khắc nhất nhưng Ngài đã từ bỏ khi nhận ra rằng
“Một tinh thần minh mẫn không thể có được trong
một cơ thể gầy mòn, ốm yếu”. Đức Phật chủ trương tu
tập tránh xa hai cực đoan khổ hạnh ép xác và hưởng thụ dục lạc hay tránh dẹp
những chướng duyên có tính thái quá, cố chấp và rơi vào những thái cực nhằm phát
huy và thành tựu Thánh đạo. Con đường này được gọi là Trung đạo hay Thánh đạo
tám ngành bao gồm chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Cốt tủy của con đường này là thánh tựu
chánh kiến, thấu triệt sự thật về tính duyên sinh của
thân, tâm và thế giới, vượt thoát tham ái và chấp thủ, chứng đạt giải thoát, an
lạc.
Quan điểm về “giải thoát” nghiệp
Kỳ-na giáo cho rằng linh hồn là
thực thể thuần khuyết, toàn năng, tồn tại vĩnh viễn và bất diệt. Tuy nhiên, khả
năng của linh hồn bị hạn chế bởi thân xác cụ thể với những tình cảm, ý chí, dục
vọng mà linh hồn sống trong đó. Cho nên, khi linh hồn được giải thoát, được trở
nên thuần khiết chỉ khi nào nó thoát khỏi sự trói buộc của vật chất.
Như đã trình bày ở trên, khi linh hồn bị khuấy động, các bụi
nghiệp theo nghiệp lậu bám vào linh hồn rồi trùm kín linh hồn khiến nó trở nên ô
nhiễm. Tattārthādhigama Sūtra trình bày quá trình cắt đứt dòng chảy của
bụi nghiệp đưa linh hồn trở về với trạng thái nguyên thủy thuần khiết và giải
thoát khỏi sự trói buộc của thể xác. Con đường để giải thoát đó nhờ vào “ba
viên ngọc quý” (Tri-ratna): “Niềm tin
đúng đắn, hiểu biết đúng đắn, đức hành chân chính - những điều này hợp với nhau
tạo thành con đường để giải thoát.”
Thứ nhất, niềm tin đúng đắn hay
chánh tín chính là thái
độ tôn kính đối với
chân lý
hành trì, là
“tin tưởng vào những gì xác định rõ ràng như chúng tồn tại, điều này đạt được
bởi trực giác hay trí tuệ.” Tuy
nhiên, Kỳ-na giáo không hề yêu cầu tín
đồ của mình tin vào lời di huấn của các thánh
nhân trong tôn giáo họ một cách mù
quáng. Quan điểm về niềm tin đúng đắn của
Kỳ-na giáo là khi đã xác định rõ ràng về sự tồn tại của một đối tượng rồi mới
tin và điều đó chỉ đạt được nhờ trí tuệ.
Thứ hai, hiểu biết đúng đắn hay chánh tri chỉ đạt được
khi hành giả phát khởi lòng tín ngưỡng chân
chánh và nghiên cứu những giáo lý của đấng đại
giác đại ngộ.
“Sự hiểu biết, trí tuệ được bắt nguồn từ những
nguồn gốc bên ngoài, thí dụ, châm ngôn và những lời trích trong
thánh kinh.”
Sau khi có niềm tin vào những chân lý của
thánh nhân, kẻ học đạo cần nỗ lực nghiên tầm về những
chân lý đó mới có thể phát khởi trí tuệ chơn chánh. Nếu
không, sự tự chứng từ bên trong của họ vẫn là ở
chỗ nhận biết được “tự ngã” một cách chân
thật, chưa có khả năng làm cho “tự ngã” giải
phóng ra khỏi “phi tự ngã”. Muốn đạt được chánh tri thực sự, họ phải tiếp
tục thành tựu chánh hạnh.
Thứ ba, đức hành đúng đắn hay
chánh hạnh tức là sự thực hành các điều thiện
hạnh. Nhờ đó, con người không những ngăn
chặn những nghiệp mới phát sinh mà còn có thể tuyệt
diệt những nghiệp cũ. Tattārthādhigama Sūtra cho rằng linh hồn
muốn thoát khỏi sự ràng buộc của vật chất để trở về trạng thái thuần khiết, giải
thoát khỏi dòng chảy của nghiệp bụi phải nhờ vào “sự bảo tồn duy trì, sự thận
trọng, những sự tuân thủ các phong tục nghi lễ, sự trầm tư mặc tưởng, sự chiến
thắng những khổ đau và đức hạnh tốt.” Kỳ-na giáo giải thích rằng: “Sự
bảo tồn và duy trì là sự điều khiển, kiểm tra đúng đắn khắp tư tưởng, lời nói và
thân thể. Sự thận trọng là để giữ cẩn thận đúng đắn trong việc đi, nói, ăn,
sống, nằm và trong bài tiết.”
Trong mọi suy nghĩ, lời nói hay hành động của bản thân, theo Kì
Na giáo, cần phải có sự thận trọng, chú tâm, được điều khiển và kiểm tra một
cách đúng đắn trước khi thực hiện. Chánh niệm trong Phật giáo là tỉnh giác xem
xét hay quán sát về các hoạt động của thân, các hiện trạng cảm xúc và tâm thức.
Điều đó có thể nói giống với Kì Na giáo. Tuy nhiên, sự chánh niệm của Phật giáo
không dừng lại ở đó. Chánh niệm còn là sự chú tâm nhận diện đúng đắn về các pháp
hay các hiện tượng để thấy rõ chúng là duyên sinh, vô thường, không làm chủ được
nhằm loại trừ tập quán tham ái, buông bỏ chấp thủ, đạt đến tâm giải thoát, tuệ
giải thoát.
Những sự tuân thủ các phong tục nghi lễ, theo Kỳ-na giáo là
“sự khoan dung, khiêm nhường, ngay thẳng, chân thật, sự mãn nguyện, sự thật, sự
kiềm chế, nghiêm khắc, sự hi sinh quên mình, không giữ cái không phải của mình
đối với chính bản thân mình (không quyến luyến) và trong sạch, tất cả ở mức độ
cao nhất.”
Đây được xem là một sự tiến bộ trong nhận thức về phong tục nghi lễ của Kỳ-na
giáo. Nếu Bà-la-môn giáo cố thủ tin rằng nghi thức cúng tế là một hình thức của
nghiệp và được tuân thủ thực hiện một cách tuyệt đối mới
đem lại kết quả tốt, Kỳ-na giáo lại khác. Giáo nghĩa về lễ nghi của Kỳ-na giáo
mang tính giáo dục, hướng con người đến với cuộc sống thánh thiện hơn bằng các
đức tính không thể thiếu của một con người đạo đức.
Một yếu tố khác giúp cho linh hồn được giải thoát đó là sự trầm
tư mặc tưởng về những điều đang chi phối con người như “chu kỳ
của sự sống và cái chết (samsāra)... bản chất của vũ trụ... và bản chất của con
đường đúng đắn.”
Đối với Đức Phật, Ngài im lặng khước từ mọi câu hỏi mang
tính huyền hoặc và thiếu thực tế. Ngài bảo chúng
bị che đậy bởi tính
không có ý nghĩa hoặc rối rắm không đầu
không cuối của chúng và nếu có trả lời thì
tính hạn chế của ngôn
ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể
diễn tả rốt ráo mọi
điều thấy biết của Ngài. Đức
Phật khẳng định câu hỏi về những trạng thái sau khi chết, bản nguyên của
vũ trụ... “là tà kiến, kiến trù
lâm, kiến hoang vu, kiến hý
luận, kiến tranh chấp, kiến kiết
phược, đi đôi với khổ, với tàn hại, với não hại,
với nhiệt não, không hướng đến yếm
ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác
ngộ, Niết-bàn. Ta thấy có sự nguy hại này mà Ta không
chấp nhận hoàn toàn những tri
kiến như vậy!”
Giá trị đạo đức của giáo lý nghiệp
Có thể nói, một trong những giáo lý chứng
minh sự tiến bộ và mang đậm giá trị nhân bản đạo đức của Kỳ-na giáo đó là
“năm lời thề”. Đây là giáo lý căn bản và không thể
thiếu đối với hành giả Kỳ-na giáo, bất kể tu sĩ hay tín
đồ tại gia. Tầng lớp tu sĩ Kỳ-na giáo luôn phải tuân thủ nghiêm ngặt, cứng rắn
và khắt khe “năm lời thề cao cả” (maha-vrata), đối với tín đồ
chúng có phần linh động hơn và chỉ là “năm lời thề bình thường” (anu-vrata).
Những lời thề này là:
Thứ nhất, Ahimsa hay bất bạo
động bao gồm năm sự trầm tư mặc tưởng đối với lời thề
chống lại sự tồn tại. Đó là “thận trọng trong lời nói; thận trọng trong tư
tưởng; thận trọng trong bước đi; thận trọng trong việc nâng lên và đặt xuống
những đồ vật; và, xem xét cẩn thận đối với đồ ăn, thức uống của mình.”
Các hành giả Kỳ-na giáo luôn cẩn trọng trong mọi hoạt động của bản thân để
hạn chế tối đa gây tổn thương đến các sinh vật khác.
Đây cũng là một trong những yếu tố cốt tủy về
lòng từ bi của Phật giáo.
Thứ hai, Satya hay đúng đắn trong
suy nghĩ, lời nói hay hành động bao gồm năm sự suy niệm đối với lời thề chống
lại sự giả dối. Đó là “từ bỏ sự giận dữ; từ bỏ tính tham lam; từ bỏ tính hèn
nhát; từ bỏ sự nhẹ dạ; và, nói theo những mệnh lệnh của thánh
kinh.” Kỳ-na giáo cho rằng sự giận
dữ, tham lam, hèn nhát hay nhẹ dạ là những nguyên nhân khiến con người phạm vào
tội lỗi của sự giả dối. Để khắc phục điều này, họ không những phải chế phục các
tính đó mà còn phải nói và làm theo những gì thánh kinh
đã dạy. Ở một khía cạnh nào đó, lời thề thứ hai này tương tự giới thứ tư trong
ngũ giới của Phật giáo là tránh nói dối, tránh nói lời hai lưỡi, tránh nói lời
thô xấu và tránh nói lời mê hoặc.
Thứ ba, Asteya hay không sở hữu
bao gồm năm sự suy niệm đối với lời thề chống lại sự trộm cắp. Đó là “cư trú
ở nơi hiu quạnh, cô độc; cư trú ở nơi hoang vắng; cư trú ở nơi mà người ta không
bị quấy rầy bởi những người khác; của bố thí trong sạch; và, không tranh luận
với những học trò có cùng một niềm tin về phía ‘của tôi’ và ‘của anh’.” Đời
sống tu tập của các tu sĩ Kỳ-na giáo có mối quan hệ hữu cơ với tín đồ tại gia.
Các vị tu sĩ chỉ tập trung vào việc tu tập, chọn nơi hiu quạnh, hoang vắng để
tránh mọi tác động từ người khác. Họ nhận các phẩm vật hoàn toàn từ các tín đồ
nhưng ít quan tâm đến các nhu yếu trong đời sống sinh hoat. Cuộc sống của các tu
sĩ Kỳ-na giáo hầu như không sở hữu của cải, lý do được
đưa ra cho việc này là muốn hạn chế sự trộm cắp và để tâm hồn
được tự tại, trong sạch.
Thứ tư, Bragmacharya hay tránh sự
đam mê lạc thú bao gồm năm sự suy niệm đối với lời thề chống lại sự không trong
sạch. Đó là “từ bỏ nghe theo những chuyện kích thích lòng quyến luyến đối với
những người phụ nữ; từ bỏ sự ngắm nhìn những thân thể đẹp của họ; từ bỏ sự hồi
tưởng về điều hưởng thụ đã qua với những người phụ nữ; từ bỏ những chất kích
dục; và, từ bỏ sự tô điểm chính thân thể của mình.” Lời thề thứ tư này có
phần giống như giới thứ ba trong ngũ giới của Phật giáo là tránh tà dâm. Đức
Phật dạy các vị xuất gia phải dứt hẳn dâm dục, vì dâm dục là nhân đi đến sự đọa
lạc, luân hồi trong sinh tử. Ái càng nặng trói buộc càng chặt, sự đau khổ do đó
mà tăng trưởng.
Thứ năm, Aparigraha hay sự hy
sinh bao gồm năm sự suy niệm đối với lời thề chống lại sự quyến rủ của thế giới
trần tục. Đó là “từ bỏ lòng yêu mến và sự thù ghét đối với những đối tượng
gây thích thú và gây khó chịu của cảm giác; suy ngẫm về lòng trắc ẩn với tất cả
sinh vật đang sống; vui sướng nhìn thấy các sinh vật tiến bộ hơn chính chúng ta
trên con đường giải thoát; thương xót đối với những nỗi đau buồn; dửng dưng với
những điều mà người ta ngược đãi anh.”
Năm lời thề hay năm nguyên tắc đạo đức cơ
bản của Kỳ-na giáo có một giá trị nhân bản và đạo đức tiến bộ. Từ lời dạy cẩn
thận trong từng lời nói, hành động, suy nghĩ tránh làm tổn thương đến sinh mạng
của động vật, đến lời dạy về sự từ bỏ những gian dối,
tham đắm sắc dục của thế gian trần tục, Kỳ-na giáo đã xây dựng được một hệ thống
triết lý giáo dục con người sống đời sống thiện lương.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, trong ý niệm thường trực về sự giải thoát
linh hồn khỏi thể xác vật chất, vô hình trung một số nguyên tắc trong “năm lời
thề” của tín chúng Kỳ-na giáo đã phát triển đến mức máy móc, cực đoan. Các tu sĩ
Kỳ-na giáo rất cẩn thận trong mọi động tác của mình. Khi đi trên đường họ dùng
chổi quét rồi mới đi; khi uống nước họ dùng lược lọc nước rồi mới uống để tránh
làm tổn hại đến côn trùng trong nước; khi hít thở họ cũng phải mang khẩu trang,
sợ hít phải các loài trùng bay vào mũi, hay nuốt phải vào miệng. Thậm chí, một
số tu sĩ trong Kỳ-na giáo còn chủ trương lõa thể. Một phương pháp khác được đề
cập đến trong Tattārthādhigama Sūtra là sự “tập
trung thiền định”. Tattārthādhigama Sūtra ghi rằng: “Sự thiền định
là giữ tư tưởng của mình vào một đối tượng đặc biệt. Sự thiền định có bốn loại:
sự tập trung khổ đau, sự tập trung tội lỗi, sự tập trung đức công chính và sự
tập trung sự thanh khiết.”
Từ những phương thức tu tập khổ hạnh cho đến các đối tượng tập
trung thiền định của Kỳ-na giáo cho thấy tôn giáo này
không xem trọng thân thể vật chất của mình và họ chú trọng đến thiền định hầu
như chỉ nhằm giảm thiểu, hạn chế nhu cầu vật chất từ bên ngoài. Với họ mà nói,
càng khổ hạnh nghiêm khắc, càng tiết chế tối đa sự xâm nhập của vật chất từ bên
ngoài thì càng mau đạt đến mục đích giải thoát.
Đối với Phật giáo, tuy có nhiều tương đồng trong tư tưởng triết
học, giáo lý với Kỳ-na giáo, nhưng Phật giáo có sự
uyển chuyển trong từng hoàn cảnh, không cứng nhắc hay giáo điều mà tất cả đều
dựa trên tinh thần tự nguyện.
Giáo lý nghiệp của Phật giáo hướng con
người đến công phu tu tập để chuyển hóa nội tâm, từ đó có đủ nhận thức để đón
nhận, để đối diện với những khổ đau đang trói buộc, sai sử con người. Phật giáo
chủ trương rằng, chúng ta không thể thay đổi được hoàn cảnh sống nhưng chúng ta
có đủ năng lực để đón nhận hoàn cảnh đó theo cách của chúng ta. Hiểu được giá
trị đó, sẽ giúp cho tự thân sống có trách nhiệm hơn, đủ nghị lực nhận lãnh những
khó khăn hay thử thách và xem đó chỉ là kết quả
của những hành động mình đã gây ra ở hiện tại hay trong đời quá khứ, chứ không mù
quáng để buông xuôi chịu đựng. Vui sống
giữa những nghịch cảnh là chất liệu để tôi luyện nên những con người giải thoát,
tự tại bởi “cảnh khổ là nấc thang có những người anh
tài, là kho tàng cho những người khôn khéo, nhưng cũng là hố thẳm cho
những kẻ yếu hèn”.
Kết luận
Trong tiến trình phát triển tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ,
có thể nói Kỳ-na giáo và Phật giáo là hai tôn giáo tiên phong trong công cuộc
phủ nhận sự hiện hữu và vai trò của Thượng đế hay đấng Sáng thế đối với cuộc
sống con người.
Quan điểm về nghiệp của Kỳ-na giáo và
Phật giáo có nhiều sự khác biệt. Nghiệp của Kỳ-na giáo được hiểu là các bụi
nghiệp. Khi linh hồn bị khoấy động, các bụi nghiệp này sẽ bám vào, chiếm lấy rồi
trói buộc linh hồn. Cho nên, sự giải thoát được Kỳ-na giáo đặt ra là làm cách
nào để linh hồn gạt bỏ đi các bụi nghiệp cũ và ngăn chặn dòng chảy của bụi
nghiệp mới. Điều đó đồng nghĩa với việc đưa linh hồn thoát khỏi sự ràng buộc của
thân xác mà thực hành khổ hạnh ép xác là một trong những giải pháp được đặt ra.
Bên cạnh khổ hạnh, giáo lý Kỳ-na giáo còn thiết lập nhiều
phương pháp hữu hiệu khác. Trong số đó phải kể đến hình
thức tập trung thiền định và sự thực tập nghiêm ngặt của “năm lời thề”.
Một điều khác biệt khá lớn giữa Kỳ-na giáo và Phật giáo mà nó
dẫn đến sự khác nhau trong con đường tu tập là quan điểm
giải thoát nghiệp. Kỳ-na giáo chấp nhận rằng những gì con
người đang đón nhận ở hiện tại là do nghiệp lực của đời quá khứ trói buộc và con
người không thể nào thay đổi được. Con người chỉ có thể sống thật thiện lương,
thực hành đúng đắn “năm lời thề” để kiếp sau hưởng được
kiếp sống an vui, như ý. Phật giáo không nhìn nhận như vậy. Đức Phật chỉ ra rằng
bản chất của vạn pháp trên thế gian là duyên sinh, vô thường và vô ngã. Chính vì
thế, chúng ta có thể chuyển hóa nghiệp lực ngay trong đời sống hiện tại và nếm
được hương vị của sự giải thoát ngay trong giây phút hiện tại mà không cần phải
đợi đến kiếp sau. Đó là điều kiện cơ bản để cá nhân con người thoát khỏi sự nô
lệ ý thức, nỗ lực vươn tới đời sống hạnh phúc và cũng là nhân tố để xây dựng đời
sống có đạo đức và trật tự xã hội.
Nếu Kỳ-na giáo chủ trương “thân nghiệp” là đầu mối của mọi tội
lỗi dẫn đến luân hồi nghiệp báo, Phật giáo lại tập trung vào “ý nghiệp”. Đức
Phật khẳng định chính những suy nghĩ phát khởi trong tâm thức là nguồn gốc dẫn
đến hành động hay lời nói tốt hay xấu của con người. Chính vì thế, sự giải thoát
của tâm ý khỏi những ràng buộc của tham dục, sân hận, si mê là sự giải thoát
thực sự mà người tu tập cần đạt đến.
Giáo lý về nghiệp
mà Kỳ-na giáo và Phật giáo xây dựng nên là một trong những tác nhân quan trọng
tôi luyện con người trở nên thánh thiện. Một con người thánh thiện là nền tảng
để xây dựng một xã hội ổn định và phát triển. Và, sự thánh thiện đó chỉ có thể
đạt được bởi một tâm hồn thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi những ham muốn tầm
thường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Doãn Chính biên tập, Lịch sử triết học Ấn Độ - Kinh văn
của các trường phái triết học Ấn Độ, NXB.Đại Học Quốc
Gia Hà Nội, Hà Nội, 2003.
4. Tuệ Sỹ, Nghiệp trong triết học
- Tôn giáo Ấn Độ,
http://www.daophat-ngaynay.com/vn/phat-phap/giao-phap/nq-nb-lh/19408-nghiep-trong-triet-hoc-ton-giao-an-do.html.
Truy cập 12/12/2010.
5. Thích Minh Châu dịch, Kinh Pháp cú,
NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2006.
6. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng chi
I, Kinh Trung bộ I, II, Kinh Trường bộ,
NXB.Tôn Giáo, TP.HCM, 2018.