Ý nghĩa và biểu tượng Bảy báu của Chuyển luân Thánh vương
Ý NGHĨA VÀ BIỂU TƯỢNG BẢY BÁU
CỦA CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG
Thích Nữ Huyền Minh
Một vị
Chuyển luân thánh vương khi lấy Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn phương,
thống trị các quốc độ thì có đầy đủ bảy món báu: một là báu bánh xe vàng; hai là
báu voi trắng; ba là báu ngựa xanh; bốn là báu thần châu; năm là báu ngọc nữ;
sáu là báu cư sĩ; bảy là báu chủ binh (tướng quân).
Vào ngày rằm, Chuyển luân
thánh vương tắm gội sạch sẽ bằng nước thơm, ngồi trên điện cao, có cung nữ theo
hầu xung quanh. Khi ấy bánh xe vàng tự nhiên hiện ra, bánh xe to bốn trượng, có
ngàn căm, được chư thiên làm bằng vàng sáng chói. Rồi vua ra lệnh bánh xe vàng
đi về hướng đông. Khi ấy vua liền dẫn bốn binh chủng theo sau. Bánh xe dừng lại
chỗ nào thì vua dừng lại ở đó.
Bấy giờ các tiểu quốc vương
thấy vua đến liền dâng cúng vàng bạc châu báu và thỉnh cầu vua ở lại trị vì nơi
này. Chuyển luân thánh vương từ chối và dạy rằng lòng tốt của quý vị là đã cúng
dường ta rồi. Hãy theo Chánh pháp mà cai trị, không được sát sinh, trộm cướp, tà
dâm, nói dối, tham lam, đố kỵ. Các tiểu vương vâng lời dạy, vì cảm đức của vua
liền đi theo, tuần hành đến các nước phía nam, tây, bắc. Bất kỳ chỗ nào bánh xe
lăn đến, các vị tiểu vương ở đó đều dâng cúng vàng bạc, châu báu và thỉnh cầu
vua ở lại trị vì. Nhưng vua đều từ chối và dạy các tiểu vương nên lấy Chánh pháp
để cai trị đất nước, như các nước ở phía đông vậy. Nhờ đó đất đai cõi
Diêm-phù-đề đều màu mỡ, có nhiều trân bảo, nguồn nước trong sạch. Bánh xe lăn
tới đâu, ấn định ranh giới rõ ràng. Thành quách, cung điện được xây dựng huy
hoàng trang nghiêm. Bánh xe vàng trụ ở giữa hư không trước cung điện. Chuyển
luân thánh vương nói rằng bánh xe vàng này thật sự là điềm lành của ngài.
Bánh xe vàng tượng trưng cho
Chánh pháp. Chánh pháp ở đây gồm hai phương diện: pháp quyền và chân lý đạo đức.
Pháp luân (bánh xe) là biểu tượng rất quan trọng và thiêng liêng vì nó biểu thị
cho giáo pháp của Đức Phật và Ngài là đấng Pháp vương vận chuyển bánh xe pháp ấy
đi khắp nơi để giáo hóa chúng sinh, cũng giống như hình ảnh bánh xe vàng lăn
khắp các nước ở đông, tây, nam, bắc biểu trưng cho vị Chuyển luân thánh vương
đem Chánh pháp truyền trao, giáo hóa khắp tất cả nhân dân.
Nhờ có Chánh pháp nên vua đi
đến đâu các tiểu vương và nhân dân ở đó đều quy thuận và dâng cúng đầy đủ vàng
bạc châu báu. Vì vua biết tôn trọng và y theo Chánh pháp mà cai trị đất nước nên
khắp nơi đất đai màu mỡ, tài nguyên phong phú, dân cư đông đúc, trung chánh,
hiền lương. Đất nước giàu mạnh, chủ quyền lãnh thổ được khẳng định rõ ràng.
Thành quách cung điện trang nghiêm. “Bánh xe vàng trụ giữa hư không ngay trước
cung điện” tượng trưng cho Chánh pháp tồn tại trong đất nước một cách mạnh mẽ,
kiên cố, không bị phá hoại. Giáo pháp của Đức Phật được truyền thừa liên tục
không gián đoạn từ quá khứ cho đến hiện tại và tương lai. Cũng như bánh xe vàng
của vua là biểu thị pháp và luật được trụ thế lâu dài và lưu truyền mãi mãi.
Vào một buổi sáng, Chuyển
luân thánh vương ngồi trên điện lớn, bỗng thấy voi báu trắng hiện ra. Đầu có
nhiều màu, sáu ngà thon dài, sáng như vàng ròng. Vua liền cho người huấn luyện
voi đầy đủ các kỹ năng. Sau đó vua cưỡi voi dạo khắp bốn biển, rồi trở về cung
điện, nói rằng bảo vật voi trắng này đúng là điềm lành của ta.
Báu voi trắng tượng trưng cho
sức mạnh quân sự.
Vào thời cổ đại, Ấn Độ đã biết sử dụng voi trong các cuộc chiến tranh. Tượng
binh là một phần không thể thiếu trong chiến lược quân sự. Quân đội mà không có
tượng binh cũng giống như rừng không có sư tử, nước không có vua. Ở Việt Nam
cũng đã biết sử dụng voi trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, như cuộc
khởi nghĩa hai bà Trưng đã sử dụng voi chiến để đánh quân Đông Hán; bà Triệu
cũng cưỡi voi ra trận để chống lại quân Ngô. Điểm mạnh của voi chiến là hình
dáng to khỏe, hùng dũng, được sử dụng như lực lượng tấn công xung phong khi lâm
trận. Voi đâm thẳng vào quân địch, giẫm đạp và quật ngã kẻ thù. Voi rất khỏe,
sức chịu đựng bền bỉ, do đó sức tàn phá kẻ thù rất lớn. Một khi bị voi chiến tấn
công nếu đối phương không bị nghiền nát thì cũng bị quật ngã, đồng thời làm cho
quân địch hoảng loạn tinh thần, khủng hoảng đội hình, nhờ đó mà đánh thắng quân
địch. Những nước nào có nhiều voi chiến thì khả năng chiến thắng rất cao. Cho
nên voi báu là biểu tượng cho sức mạnh quân sự.
Vào một buổi sáng, Chuyển
luân thánh vương đang ngồi trên điện lớn, bỗng nhiên có ngựa báu hiện ra. Màu nó
xanh thẫm, bờm và đuôi màu đỏ. Vua thấy con ngựa này khôn bèn cho người huấn
luyện đầy đủ các kỹ năng. Sau đó, vua liền cưỡi ngựa ra khỏi thành, đi quanh
khắp bốn biển, buổi trưa trở về cung điện. Vua vui mừng nói rằng ngựa báu này
thật sự là điềm lành của ngài.
Ngựa báu xanh tượng trưng cho
sức mạnh kinh tế.
Ngựa là loài vật rất quen thuộc với con người, luôn trung thành và cũng gian khổ
sống chết với chủ trong những lúc xông pha nơi chiến trường. Vì vậy hình ảnh con
ngựa đã đi vào văn hóa nghệ thuật có khi với dáng vẻ thanh nhã, quý phái, mạnh
mẽ; cũng có lúc đi vào huyền thoại lịch sử cùng với những bậc võ tướng lãnh đạo
tài ba như con ngựa của Thành Cát Tư Hãn, ngựa của Hàn Tín, cho đến con ngựa của
Đường Huyền Trang. Do đó, đôi khi người ta xem ngựa như là biểu tượng của sức
mạnh, nghị lực, may mắn và thành công.
Thỉnh thoảng, trong các công
ty hay phòng khách, chúng ta nhìn thấy bức tranh bốn con ngựa hay đàn ngựa đang
phi nước đại. Bức tranh này được treo với mong muốn rằng sẽ có được sự phát đạt
trong kinh doanh, nhanh chóng được thăng quan tiến chức, vì người ta quan niệm
rằng “mã đáo thành công”. Cho nên hình ảnh con ngựa là biểu trưng cho sức mạnh
kinh tế.
Vào một buổi sáng, khi Chuyển
luân thánh vương đang ngồi trên điện lớn, bỗng nhiên có thần châu quý xuất hiện.
Thần châu sáng rực trong suốt, không tỳ vết. Khi ấy vua nghĩ rằng thần châu này
thật tuyệt vời, ánh sáng của nó sẽ chiếu rọi khắp hoàng cung. Đêm hôm đó, vua tự
tay đặt thần châu trên cây phướn cao, cùng với bốn binh chúng xuất thành. Ánh
sáng thần châu soi tỏ đến một do tuần, sáng như ban ngày. Chuyển luân thánh
vương vui mừng nói rằng thần châu này thực sự là điềm lành của ngài.
Báu thần châu này tượng trưng
cho trí huệ; nói theo Thượng tọa Thích Nhật Từ là tượng trưng cho sức mạnh tri
thức.
Trong Phật giáo, viên minh châu được Đức Phật nhắc đến nhiều lần để dụ cho tánh
giác, trí tuệ sẵn có của tất cả chúng sinh, như hạt châu trong chéo áo của gã
cùng tử, viên minh châu trong búi tóc của vua trong kinh Pháp hoa, viên
minh châu trong lòng bàn tay của ngài Địa Tạng… Ánh sáng của ngọc báu có công
năng chiếu soi tất cả chốn địa ngục tối tăm, và chúng sinh có thể nương theo ánh
sáng đó để được giải thoát khỏi tam đồ. Chúng sinh vì bị vô minh che đậy nên tạo
nhiều nghiệp ác, một khi có ánh sáng trí tuệ xuất hiện thì bóng tối vô minh tan
biến. Ánh sáng của ngọc báu xua tan bóng tối thì ánh sáng trí tuệ xóa tan vô
minh, mê muội.
Ngọc báu có thể làm viên mãn
mọi tâm nguyện. Người có trí tuệ có thể thực hiện công việc một cách chu toàn,
trọn vẹn. Như vậy, báu thần châu thuộc sở hữu của vua có nghĩa là một vị vua
phải có trí tuệ, biết phân biệt được đâu là trung thần, đâu là gian thần, biết
phân biệt thiện ác, trắng đen, biết những gì nên làm những gì không nên làm để
xử lý công việc một cách tốt đẹp. Cho nên nói báu thần châu này tượng trưng cho
trí tuệ hay sức mạnh tri thức.
Vào một buổi sáng, khi Chuyển
luân thánh vương đang ngồi trên điện lớn, bỗng nhiên có ngọc nữ hiện ra trước
mặt. Ngọc nữ có nhan sắc như tiên nữ, dung mạo đoan trang, oai nghi cử chỉ chuẩn
mực, nói năng dịu dàng, miệng thường thoảng hương hoa Ưu-bát-la, thân thể thường
phảng phất hương thơm như hương chiên đàn, mùa hè thì thân mát, mùa đông thì
thân ấm; nhân cách cao thượng, sáng ngời khiến người đối diện không hề khởi tâm
tham dục, mê đắm. Chuyển luân thánh vương vui mừng nói rằng báu ngọc nữ này là
phước duyên lành của ngài.
Báu ngọc nữ này tượng trưng
cho người phụ nữ đức hạnh. Vì Đức Phật đang nói đến đời sống của một người lãnh
đạo ở thế gian, có gia đình như bao nhiêu người dân khác, nên khi vua lập gia
đình thì phải chọn người phụ nữ đoan chánh, đức hạnh tròn đầy. Trong kinh diễn
tả lúc nào thân thể cũng phảng phất hương thơm như hương chiên-đàn. Hương thơm
đó biểu trưng cho hương giới hạnh. Miệng lúc nào cũng nói lời chân thật, dịu
dàng, ái ngữ, mỗi lời nói ra như phun châu nhã ngọc, là hương là hoa. Oai nghi
cử chỉ đúng mực, hợp thời hợp lý, biết làm tròn bổn phận của mình.
Khi ấy có các cư sĩ bỗng
nhiên hiện ra với nhiều tài sản châu báu vô lượng. Những cư sĩ này có thể nhìn
biết kho báu nào có chủ thì giữ hộ, kho báu nào không có chủ thì dâng vua. Cư sĩ
tâu vua rằng “Đại vương cần bất cứ thứ gì, thần sẽ cung cấp tất cả.” Vua muốn
thử lòng, liền ra lệnh chuẩn bị thuyền du ngoạn và nói rằng: “Ta cần bảo vật
vàng, hãy nhanh đem đến cho ta”. Cư sĩ thưa: “Đại vương xin chờ một lát, cần
phải lên bờ đã”. Vua lại giục: “Ta đang cần dùng, hãy mang đến ngay cho ta”. Khi
ấy cư sĩ bèn thọc tay xuống nước lấy lên chiếc bình báu, rồi lần lượt chất đầy
cả thuyền. Cư sĩ tâu vua: Ngài cần bao nhiêu của báu? Vua liền nói rằng: Ta chỉ
muốn thử lòng ông mà thôi. Cư sĩ nghe vậy liền trả lại báu vật vào trong nước.
Chuyển luân thánh vương vui mừng nói báu cư sĩ này chính là phước duyên lành của
ngài.
Báu cư sĩ này tượng trưng cho
nhân tài của đất nước.
Đất nước luôn cần những người có thiện tâm, thiện chí như những vị cư sĩ báu
này. Một vị vua hay người lãnh đạo rất cần những nhân tài như thế. “Nhân tài
chính là nguyên khí của quốc gia”, nguyên khí mạnh thì đất nước mới mạnh, nguyên
khí yếu thì đất nước cũng suy yếu theo. Do đó, một vị vua phải có những chính
sách để chiêu đãi, mời gọi nhân tài hội tụ về để hỗ trợ cho mình.
Khi
ấy, báu chủ binh bỗng hiện ra trước mặt, hùng dũng, có tài thao lược, mưu trí
nhanh nhẹn, đến vua tâu rằng: “Đại vương muốn dẹp loạn chỗ nào, thần xin đảm
trách”. Khi ấy, vua muốn thử tài chủ binh liền triệu bốn loại chiến binh, bảo
rằng: “Ngươi hãy điều binh. Lính chưa tập hợp thì hãy tập hợp. Lính đã tập
hợp thì hãy giải tán. Nếu lính chưa nghiêm, hãy làm cho nghiêm. Lính đã nghiêm
rồi thì hãy cởi mở. Ai chưa chịu đi, hãy khuyên bảo đi. Ai đã chịu đi thì khiến
dừng lại”. Khi ấy chủ binh liền làm theo lời vua, không sai mảy may. Chuyển luân
thánh vương vui mừng nói báu chủ binh này thật sự là phước duyên lành của ngài.
Báu
chủ binh này tượng trưng cho tướng tài, nhà quản trị giỏi.
Vua giỏi thì phải có tướng tài trợ giúp. Không phải lúc nào vua cũng thân hành
làm tất cả các công việc. Vua có thể ở một chỗ mà điều binh khiển tướng giải
quyết các công việc một cách hợp lý. Thế nên vị tướng đó cũng phải có tài đức,
mưu trí sắc bén để thay vua xử lý các công việc được giao phó, chỗ nào chưa yên
thì làm cho yên, chỗ nào chưa có phép tắc thì làm cho có nề nếp phép tắc… Đó là
vị tướng giỏi, nhà quản trị giỏi. Vua rất cần những nhà quản trị giỏi như thế để
phò tá.
Như
vậy, do nhờ công đức giữ năm giới, thực hành mười điều thiện và phước báo chăm
lo đời sống của người dân, dùng Chánh pháp trị vì thiên hạ mà bảy báu tự nhiên
xuất hiện. Khi bảy báu này biến mất là điềm báo thọ mạng của Chuyển luân thánh
vương sắp hết. Điều này chứng tỏ rằng y báo tốt thì chánh báo cũng nhờ đó mà tốt
theo. Bảy báu này tượng trưng cho bảy điều kiện để duy trì và phát triển đất
nước bền vững: một là Chánh pháp, hai là sức mạnh quân sự, ba là sức mạnh kinh
tế, bốn là sức mạnh trí tuệ, năm là người vợ đức hạnh, sáu là nhân tài, bảy là
tướng tài, nhà quản trị giỏi.
Khi bảy điều kiện này suy giảm chứng tỏ sự điều hành của người lãnh đạo cũng bắt
đầu suy thoái, là dấu hiệu cho thấy nhiệm kỳ của vị ấy sắp kết thúc. Chỉ khi nào
vị Chuyển luân thánh vương hoàn thiện đạo đức bản thân cũng như dùng Chánh pháp
để cai trị nhân dân thì bảy báu mới xuất hiện như trước.
大正新脩大藏經第
01 冊 No. 0001
長阿含經(世記經轉輪聖王品):“時,主兵寶忽然出現,智謀雄猛,英略獨決,即詣王所白言:『大王!有所討伐,王不足憂,我自能辦。』時,善見大王欲試主兵寶,即集四兵而告之曰:『汝今用兵,未集者集,集者放;未嚴者嚴,已嚴者解;未去者去,已去者住。』時,主兵寶聞王語已,即令…時,善見王踊躍而言:此主兵寶真為我瑞。”