Mùa xuân, tản mạn về hạnh phúc
Mùa xuân
Mùa xuân, tản mạn về hạnh phúc
Chúc nhau mùa xuân hạnh phúc?
Mỗi độ xuân về, chúng ta thường nghe mọi người chúc nhau: nào là xuân như ý,
thành công, tiền bạc dồi dào nhưng cái cuối cùng họ muốn chúc nhau là hạnh phúc
vì phải chăng những thành đạt vật chất cuối cùng cũng quy về hạnh phúc. Có ai
chúc nhau “thịnh vượng” mà lại chẳng “an khang” đâu, nhất là sau một năm đầy
biến cố như 2020 mà chúng ta vừa đi qua, bất an và đầy phiền muộn. Một
năm mà cả thế giới loay hoay,
trăn trở, chiến đấu vất vả với
đại
dịch Covid-19.
Khi viết bài này thì
số người chết
đã
hơn 1,7
triệu
và số ca nhiễm hơn
80
triệu. Nguy hiểm hơn
là
vào những ngày cuối năm khi nhân loại chưa kịp vui mừng với sự có mặt của vài
loại vaccine do cả Nga và Mỹ sản xuất mang theo hy vọng cứu rỗi nhân loại, thì
lại nghe những thông tin về biến thể mới của virus xuất hiện ở Anh quốc
và châu Phi (?).
Nhiều nước dịch
cũng bùng phát
mạnh
trở lại. Nền kinh tế thế giới đã lao dốc,
chìm trong suy thoái. Từ điển Colline đã gọi
“lockdown”
(phong tỏa) là từ khóa của năm 2020. Đó là nguyên nhân của hàng trăm triệu người
thất nghiệp.
Người ta tính có đến hơn 135 triệu người cần cứu đói trên thế giới. Riêng ở Việt
Nam, theo thống kê, hơn 30 triệu người mất hay không có việc làm. Chưa kể,
chúng ta đang sống những ngày cuối mùa đông với những bất trắc của thời tiết, có
cả thiên tai và nhân tai,
với
bao con người ở miền Trung
vừa trải qua những
cơn lũ quét, đã có người chết, đã tổn hại biết bao hoa màu và cây trái.
Nhưng chúng
ta
cũng còn
may mắn vì dù sao cũng đã khống chế về cơ bản được sự bùng phát của đại dịch
trong cộng đồng bằng nỗ lực chung và riêng của từng cá nhân và cả xã hội, thêm
biện pháp mạnh từ phía chính quyền.
Đặc biệt, trong cơn khốn khó ấy, chúng ta thấy lóe lên những điểm sáng, từ những
cây ATM gạo ở TP.Hồ Chí Minh và một vài tỉnh lân cận, đến ATM khẩu trang… Rồi
từng đoàn người kéo nhau ra miền Trung cứu trợ bão lũ. Hình ảnh những Tăng Ni
hay cô ca sĩ, cậu sinh viên vượt dòng nước xoáy đem quà cứu trợ đến tận tay
những người dân vùng rốn lũ, làm nhiều người cảm động. Dù cực khổ nhưng họ rất
vui, nụ cười nở trên môi với ánh mắt chất chứa nhiều thương cảm. Tất cả nói lên
rằng hạnh phúc đến không chỉ từ nhưng thu hoạch về tiền tài vật chất cá nhân mà
còn ở sự biết cho đi, sự cống hiến cho cộng đồng.
Hạnh phúc đến từ đâu?
Trong một bài viết gần đây trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, tác giả Lê Hữu
Huy nhận định: “Hạnh phúc mà chúng ta cảm nhận được sau một sự kiện hoặc hoạt
động cụ thể sẽ giảm đi sau mỗi lần trải nghiệm, một hiện tượng mà thuật ngữ tâm
lý gọi là ‘sự thích nghi mang tính khoái lạc’ (hedonic adaptation). Thế nhưng
cảm nhận hạnh phúc sẽ không giảm hoặc giảm chậm hơn nếu chúng ta cho người khác
một cái gì đó. Đây là kết luận từ công trình nghiên cứu của Ed O’Brien, phó giáo
sư về khoa học hành vi tại Trường Kinh doanh Booth thuộc Đại học Chicago và
Samantha Kassirer, nghiên cứu sinh tiến sĩ của Trường Quản lý Kellog thuộc Đại
học Northwestern (Mỹ).
Trong một đợt khảo sát, hai tác giả phát cho những người tham gia là sinh viên
mỗi ngày 5 đô-la trong năm ngày và yêu cầu họ tiêu tiền cho bản thân hay cho
người khác, chẳng hạn hàng ngày để tiền trong lọ tiền tip tại cùng một quán cà
phê hoặc đóng góp trực tiếp cho cùng một tổ chức từ thiện. Những người tham gia
sẽ phản ánh trải nghiệm chi tiêu và mức độ hạnh phúc nói chung của mình vào cuối
ngày.
Dữ liệu từ tổng số 96 sinh viên cho thấy mô thức những người tiêu tiền cho bản
thân cho biết mức độ hạnh phúc giảm đều trong năm ngày nhưng hạnh phúc
không hề giảm hay giảm chậm hơn với những ai đã trao tiền cho người khác. Niềm
vui từ việc cho đi trong lần thứ năm liên tiếp cũng mạnh mẽ như lúc bắt đầu.” (Lê
Hữu Huy, Hạnh phúc từ sự cho đi và những mô thức của lòng nhân, TBKTSG số
51 ngày 17/12/2020).
Tác giả kể rằng sau đó hai nhà nghiên cứu tiến hành đợt khảo sát thứ hai theo
hình thức trực tuyến với 502 người cũng với phương thức cho tiền và để họ sử
dụng theo ý minh lựa chọn. Một lần nữa mức độ hạnh phúc của những người đã cho
đi số tiền của mình không giảm hay giảm chậm hơn nhiều so với những người giữ
lại tiền. Hai tác giả kết luận cho đi trở thành một sự kiện duy nhất để tạo ra
hạnh phúc. “Ngoài ra việc cho đi cũng giúp ta duy trì uy tín xã hội, củng cố cảm
giác liên kết và sở hữu”.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của những hoạt động từ thiện. Từ thiện là
sự tự nguyện giúp đỡ những người gặp khó khăn. Trong tiếng Anh từ “charity” có
nguồn gốc từ tiếng La-tinh “carus” có nghĩa là người khác, sau đó là “caritas”,
một từ thường được dùng trong Tân ước với ý nghĩa “tình yêu của Chúa Kitô
với đồng loại”. Theo thời gian, nó mang ý nghĩa “sự hào phóng và hay giúp đỡ”
(theo Merriam Webster), hoặc là tổ chức từ thiện. Từ caritas còn thường
được dịch là “lòng bác ái”.
Trở lại với Phật giáo, bố thí (dana) là bất kỳ hành động nào từ bỏ quyền
sở hữu với những gì được coi là của mình. Nhà Phật chia làm ba hình thức: tài
thí, pháp thí và cao nhất là vô úy thí.
Có ba trạng thái tâm khi bố thí. Một là bố thí để nhận lại một cái gì khác. Hai
là bố thí để được khen ngợi, công nhận đức hạnh. Đây là trạng thái tâm ban đầu
khi bố thí của đại đa số chúng ta. Vì thông thường, sự cho đi luôn cần sự nhận
lại theo mọi cách. Nhận từ vật chất hay tinh thần, từ những suy nghĩ vi tế từ
trong tâm. Sự bố thí nào cũng đáng ca ngợi vì bản chất đẹp là sự bố thí và cho
đi cái của mình đang có. Ba là bố thí ba-la-mật. Bố thí ba-la-mật là sự bố thí
cùng tột mà người thực hành phải thật sự đạt được “tánh không” mới có thể thực
hành được một cách đúng nghĩa và trọn vẹn công đức lành của việc thực tập bố thí
ba-la-mật.
Từ thiện, bố thí là pháp tu nhằm nuôi dưỡng và phát triển lòng từ bi, nền tảng
căn bản của Bồ-tát đạo. Hành giả tu học Phật hướng đến giác ngộ, giải thoát,
thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề phải trải qua quá trình hành Bồ-tát đạo trong
đó có việc cứu độ chúng sinh. Trong kinh Tăng chi bộ, Đức Phật dạy:
“Có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc, bố thí
không với ý nghĩ ‘ta sẽ hưởng thọ cái này ở đời sau’, chỉ bố thí với ý nghĩ
‘lành thay sự bố thí’”.
Kinh Hoa nghiêm nói: “Bồ-tát là nhà đại thí chủ, có bao nhiêu của cải
bình đẳng thí cho chúng sinh mà không hối tiếc, chẳng mong quả báo, chẳng cầu
danh vọng, chẳng cầu sinh về chỗ tốt hơn, chẳng cầu lợi dưỡng. Bồ-tát chỉ muốn
cứu độ tất cả chúng sinh, muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh, muốn học theo
bổn hạnh của các Đức Phật, muốn thọ trì bổn hạnh của các Đức Phật và muốn khiến
tất cả chúng sinh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo”.
Từ đó cho thấy, pháp bố thí mang lại cả phước báo hữu lậu và vô lậu. Nếu bố thí
với tâm chấp thủ thì được phước báo hữu lậu. Nếu bố thí với tâm vô cầu, vô trụ
chấp thì được phước báo vô lậu.
Những câu chuyện về tiền thân Đức Phật được ghi lại trong kinh Bổn sinh
(Jātaka) cho biết, trong vô lượng kiếp khi còn hành Bồ-tát đạo, Đức Phật đã dấn
thân phụng sự đạo pháp và chúng sinh, từng bố thí tài sản, sự nghiệp, vợ con,
thậm chí cả thân mạng để làm lợi ích cho chúng sinh. Đức Phật dạy trong kinh
Niết-bàn như sau: “Đại từ đại bi gọi là Phật tánh. Từ tức Như Lai, Như
Lai tức từ. Tâm từ bi là tâm Phật, vậy muốn trở thành Phật không thể không
có tâm từ bi.” (Chương V, phẩm Sumanā).
Xuân Di
Lặc
-
Xuân
hạnh phúc trong Tứ
vô lượng tâm
Đức Phật Thích Ca dạy rằng tiếp theo thời Tượng pháp là thời Mạt pháp, thời giáo
pháp suy đồi và mai một. Khi đó một Đức Phật khác sẽ ra đời để khai mở cho nhân
loại một kỷ nguyên Chánh pháp mới: đó là Đức Phật Di Lặc. Thiền sư Nhất Hạnh gọi
Ngài là “một nhà văn hóa có đầy đủ chánh biến trí, có đủ đại hùng, đại bi, đại
nguyện, như thế, con người cấp thiết của thế kỷ chúng ta.” (Thích Nhất Hạnh,
Đạo Phật đi vào cuộc đời, Lá Bối, 1964). Di Lặc, tiếng Phạn là Maitreya,
dịch là Từ Thị (người có lòng từ). Theo Đại Nhật kinh sớ, quyển 1, chữ Từ
là lòng từ, là chi đầu tiên trong Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả). Lòng từ này
có trong chủng tánh của Như Lai, bao gồm cả: Chúng sanh duyên từ, Pháp giới
duyên từ và Vô duyên từ. Từ trong nghĩa Từ Thị là Vô duyên từ. Tức lòng từ không
đợi có một ngoại duyên nào tác động làm cho lòng từ phát khởi. Mà tâm từ đó đã
có sẵn một cách tự nhiên, rộng rãi, bao dung, bình đẳng, vô phân biệt.
Từ là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người khác. Yêu thương không phải là
hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Bi là khả năng giúp người ta bớt khổ và
không làm cho người khác khổ vì cái khổ của mình. Hỷ là vui với cái vui của
người khác. Thói thường người đời vì ích kỷ và tư lợi, vì ganh tị, vì tham, sân,
si mà trong lòng không có được đức Hỷ, không thể chia niềm hỷ lạc với kẻ khác
khi thấy họ vui do một thành công nào của họ. Xả là không phân biệt, kỳ thị
trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người khác là của mình, khổ đau của
họ là của mình. Xả là trạng thái của tâm, khiến cho giữa ta và toàn thể chúng
sinh và vạn vật không còn sự riêng biệt chia cách vạn vật, chúng sinh cùng với
ta là đồng nhất thể. Ngoại cảnh, vũ trụ cùng vô lượng chúng sinh đã trở thành ta
và ta đã trở thành chúng sinh và vũ trụ.
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
(Bùi Giáng)
Ta đã đồng thể hóa với toàn thể chúng sinh và vạn vật bằng cách xóa bỏ sự đối
chiếu, sai biệt giữa ta và ngoại cảnh, xóa bỏ bởi vì đã diệt ngã. Diệt ngã là
không còn lựa chọn, đối chiếu, thọ nạp, luyến ái, bám giữ, tàng trữ; không còn
lấy cái ta làm tiêu chuẩn, làm chỗ chứa đựng. Người có được tâm xả đã trở thành
như một tấm gương trong. Tình yêu dành cho tha nhân phải hội tụ đủ bốn yếu tố:
từ, bi, hỷ, xả. Tình yêu chân thật phải làm cho người khác vui. Dấu ấn của tình
yêu đích thực là niềm vui. Từng cá nhân, gia đình và cả cộng đồng cùng hạnh phúc.
Cuộc nhân duyên như thế là thành công. Từ tình yêu “nhỏ “như Xuân Diệu viết:
Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi. (Xuân
Diệu, Nguyên đán)
Tình yêu đã đánh thức tâm hồn nhà thơ để vui với từng cánh hoa nở. Ta chợt nhớ
tới một nhà thơ khác cũng cảm ơn hoa khi anh trở về sau những ngày “học tập”,
cảm thấy đất trời như muốn cảm thông với mình:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.
(Tô Thùy Yên, Ta về)
Vì anh cũng thấy vui khi sẽ dự
…Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chén rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc bể dâu này.
(ibid)
Anh đã “xả” nỗi oán thù trong lòng và hòa nhập cộng đồng trong tâm thức “đồng
nhất thể”.
Kinh điển ghi Di Lặc là vị Phật của hạnh hỷ xả. Hỷ xả là chất gắn kết mọi người
trong tình thương yêu, mang lại an lạc, hạnh phúc cho cộng đồng. Bản chất tâm
thức của mọi loài chúng sinh là chấp thủ. Do vậy, khổ đau là điều không tránh
khỏi. Chỉ khi nào trong chúng ta luôn có sự hiện hữu của tâm hỷ xả, biết buông
bỏ những cố chấp hẹp hòi, vị kỷ, xóa bớt những hận thù oan trái thì lúc ấy chúng
ta mới cảm nhận được niềm an lạc thật sự. Chừng đó mới có thể xây dựng được một
cộng đồng trong tinh thần hỷ xả và từ bi.
Hãy hướng về mùa xuân Di Lặc với cảm nhận về hạnh phúc trong Tứ vô lượng tâm.
Nguyên Cẩn