Đọc “Phật Điển Phổ Thông: Dẫn Vào Tuệ Giác Phật”
doc
Nguyên Giác
Ấn
phẩm “Phật Điển Phổ
Thông: Dẫn Vào Tuệ
Giác Phật” (DVTGP) là tuyển tập Kinh và luận ghi từ 3 truyền
thống: Thượng
Tọa Bộ, Đại
Thừa, Kim
Cang Thừa. Sách dày 850 trang, chữ nhỏ. Do vậy, khi viết bài này, dù nói
là “đọc sách” hay
nói là “giới thiệu sách” cũng chỉ là mạo phạm. Cũng y hệt như vào một thư
viện Phật
học khổng lồ, và tự biết rằng sức người chỉ có thể đọc một phần rất nhỏ,
nơi một góc các kệ sách thư viện. Người viết tự biết là không dễ để viết về ấn
phẩm này, dù là với nhiệt tâm muốn mời gọi độc
giả tìm đọc, để thỉnh ấn phẩm này. Đúng ra, những dòng chữ này xin là
“vài suy
nghĩ rời” về một ấn phẩm rất cần
thiết cho người học Phật.
Phản ứng đầu tiên là giựt
mình, khi nhìn thấy tác
phẩm quý giá này chỉ “in 1000 cuốn, khổ 12X20 cm tại Xí nghiệp In Fahasa”
– tại sao in quá ít như thế, đó là điều rất khó hiểu. Người viết ước
mơ rằng sách này nên in vài chục triệu ấn bản, trao tặng tất cả Phật
Tử và những người quan
tâm về Phật
học. Tuyển tập Phật Điển này để đọc một
đời, không chỉ để đọc trong một tuần, một tháng hay một năm.
Một điểm nữa, nói “đọc” hay “giới thiệu” sách Phật Điển chỉ là nói theo kiểu ngôn
ngữ phàm trần. Bản
thân mình có tư
cách gì mà làm như thế. Nơi đây, chỉ là lạm
dụng ngôn
ngữ thôi. Bởi vì Kinh là Lời của Phật, làm sao mình dám làm như khi gặp
các tác
phẩm truyện hay thơ trong
đời thường. Tuy
nhiên, nếu lặng
lẽ chắp
tay, đặt bộ Phật Điển này lên bàn
thờ thì lại có lỗi khác, vì không quảng diễn một vài điểm có thể lợi
ích cho một số độc
giả.
Thêm nữa, đâu có phải chỉ đọc một tuần hay một tháng là xong. Kinh Phật đôi khi
có những kinh rất ngắn, mà phải đọc trọn
đời. Đó là chưa kể, có những kinh hướng dẫn tu
tập, ngay cả các kinh quen
thuộc, tu vẫn là cả một
đời, như Từ và Bi nơi trang 486, như Chỉ
và Quán nơi trang 527, như Bốn Niệm Trụ (thường dịch là Tứ
Niệm Xứ) nơi trang 531, Niệm Hơi
Thở nơi trang 538, hay Quán
Vô Ngã nơi trang 660 là pháp tu trọn
đời --- không chỉ để đọc hay để tụng, vì đọc
tụng thì không vào sâu được. Nói chung, ấn phẩm DVTGP là cuốn sách với
trang nào cũng cần đọc, với dòng chữ nào cũng cần trân
trọng.
Sách “Phật Điển Phổ
Thông: Dẫn Vào Tuệ
Giác Phật” thực
hiện với Chủ biên
bản dịch Việt là Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ, ấn
hành do Hương
Tích và NXB Hồng Đức. Sách này là một dự
án của Hội
Đồng Vesak Quốc Tế, đặt tại Đại
Học MCU của Thái Lan. Kết
tập và soạn tập sách này là nhiều Biên
tập viên và dịch giả quốc tế. Trong đó, phía người Việt có Hòa
Thượng Thích Tuệ Sỹ, GS TS Lê Mạnh Thát, và GSTS Thích Nhật Từ. Biên
tập viên và dịch giả tiếng Việt, với Tổng biên
tập là Thầy Thích Tuệ Sỹ, và các vị phiên
dịch là: Thích Hạnh Viên, Thích
Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp
Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình.
Duyên khởi sách này là từ Hội
nghị lần thứ nhất của Hội
Đồng Tăng
già Thế
Giới tại Colombo năm 1967, một số khoảng 20 học
giả Phật Giáo tuyển chọn từ ba truyền
thống Phật
Giáo đảm trách dự
án này. Trưởng Biên
tập là Hòa
Thượng GS TS Phra Brahmapundit viết, “Trong
suốt bảy năm, ủy ban biên
soạn đã tổ chức không dưới 20 hội thảo chuyên đề tại MCU để phát huy nhận
thức và triển
khai phương án cụ
thể. Khoảng 490 trích đoạn từ các kinh
điển và các luận thư hậu kỳ cùng với các sớ thích của ba truyền
thống Phật
giáo được tuyển dịch trong tác
phẩm này hợp đồng giới
thiệu những gì Đức
Phật đã thuyết…” (DVTGP, trang 10)
Như thế, sách này có thể gọi là đầy đủ các cốt tủy của Phật
Học. Độc
giả có thể thỉnh sách này ở:
Thư Quán Hương
Tích,
308/12 Nguyễn Thượng
Hiền,
P.5, Quận Phú Nhuận, TP.HCM.
Phone: (28) 35500339 hay email: huongtichbooks@gmail.com
Cuốn sách này mênh
mông như thế, biết làm sao viết một bài mà giới
thiệu được? Do vậy, nơi đây sẽ chỉ nêu lên một truyền
thuyết thường được nhắc tới trong Thiền
Tông, và in lại trong sách DVTGP ở trang 749. Đề
mục này trong sách là “M.165
Ca-diếp ngộ chỉ niêm
hoa vi tiếu, thành Sơ
tổ Thiền
tông.”
Chữ M.165 là viết tắt chữ “Mahayana.165” tức là, “Kinh hay luận trong truyền
thống Đại
thừa, thứ tự mục số 165.” Tương
tự, Th. là viết tắt Theravada, tức là Thượng
Tọa Bộ, có khi quen gọi là Nam
Tông. Trong sách này truyền
thống Kim
Cang Thừa viết tắt là V., nhiều Phật
tử còn quen gọi là Phật
Giáo Tây Tạng.
Trong M.165 kể về một thiền thoại như sau:
“Đức
Thế Tôn niêm
hoa: Một
lần, trên đỉnh Linh Thứu, đức
Thế Tôn đưa lên một cành hoa trước đại
chúng. Mọi
người bấy giờ đều im
lặng, chỉ có tôn
giả Ca-diếp mỉm
cười. Đức
Thế Tôn bảo: “Ta có pháp
môn vi
diệu, là kho tàng con mắt Chánh
Pháp (Chánh
Pháp nhãn tạng), tâm vi
diệu Niết-bàn (Niết-bàn diệu
tâm), vô
tướng của thật
tướng (thật
tướng vô tướng), không lập văn
tự, truyền riêng ngoài giáo, nay đem giao
phó cho Đại
Ca-diếp.” (DVTGP, trang 749)
Đoạn văn trên cũng là trích
dịch từ Vô
Môn Quan, một tác
phẩm của Thiền
Tông Trung Hoa, được nhiều người dịch sang tiếng Việt.
Như vậy, Đức
Phật truyền cái gì cho ngài Ca-diếp? Pháp
môn vi
diệu này là gì? Bông hoa đưa lên là có tướng bông hoa, sao gọi là vô
tướng của thật
tướng và sao lại liên
hệ gì tới “Chánh pháp
nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm”? Có ai thấy ngài Ca-diếp thò tay ra để
nhận pháp hay nhận y
bát gì đâu, mà chỉ được kể là mỉm
cười thôi?
Hình như (xin dè dặt nói là, hình như) thiền thoại này không được ghi lại trong
Tạng Pali, và hình như cũng không ghi trong Tạng A
Hàm. Như thế, nghĩa thực của thiền thoại “niêm hoa vi tiếu” là gì.
Trong cương vị của một người hoàn
toàn không có thẩm
quyền gì, nơi đây xin mạn phép trả
lời rằng: ngay ở cái ngó
thấy hoa đó, tự thân đã là Niết-bàn, đã lìa tham
sân si. Ngay ở cái “thấy hoa” đã là cảnh
giới mà Kinh
Tứ Thập
Nhị Chương gọi là “vô tu, vô chứng” --- nghĩa là, nếu ở cái thấy đó, mà
còn tu hay còn mài giũa thì là hỏng, hay nơi cái thấy đó mà còn vin vào chỗ nào
gọi là chứng thì cũng hỏng. Bởi vì ngay ở cái thấy đó, tự thân là giải
thoát rồi. Chính ngay khi đó, nói bằng ngôn
ngữ khái quát hóa, thì ngài Ca-diếp đã “thấy cái vô
tướng và nghe cái vô
thanh.” Bởi vì ngài “thấy cái vô tướng” nên “tướng hoa” mới hiện
lên, và vì “nghe cái vô thanh” nên “lời Đức Phật” mới vọng tới. Chính
ngay đó là giải
thoát. Hễ làm gì khác cho cái thấy đó, cho cái nghe đó đều là hỏng.
Có rất nhiều nhân
duyên để hình thành ra một cái “thấy hoa” và “nghe lời Đức Phật” như
thế. Có ngọn núi Linh Thứu, có Đức
Phật đưa tay cầm hoa lên, có hội
chúng vân
tập trong đó ngài Ca-diếp tới nghe
lời Đức
Phật thuyết
kinh, có cái được thấy và có cái được nghe, nhưng thực sự không có ai
thấy và không có ai nghe, vì tìm hoài, tìm khắp cả ngoại xứ (khắp núi đồi cây cỏ
chúng hội…) và nội xứ (khắp thân
tâm, gan tim phèo phổi…) cũng không tìm
ra cái gì là chủ thể của cái thấy và nghe. Trong khi đó, ngọn gió vô
thường chảy xiết, tất cả những hình
ảnh (được thấy) và những âm
thanh (được nghe) liên
tục biến
đổi. Trong những hình
ảnh được thấy (như thấy hoa, thấy tay Đức
Phật đưa hoa lên) và những âm
thanh (như nghe giọng Đức
Phật nói) hễ ngài Ca-diếp nghĩ là phải mài giũa, phải tu gì
nữa, thì sẽ là hỏng, vì chỉ là “bám víu cái niệm của quá khứ” hay chỉ là
“mơ tưởng cái niệm của tương lai” hay chỉ là “níu kéo cảm
thọ khoan khoái khi nghe Đức
Phật khen” đều là hỏng. Ngài nhận
ra ngay trong “cái thấy, cái nghe” tự thân đã lìa thủ với xả, vì hễ cố
ý thủ với xả là tức khắc không còn là “cái thấy, cái nghe” mà nó đã hiện
ra “cái tôi muốn hay cái tôi không muốn” -- và là tham sân hiện
ra.
Nghĩa là, khi pháp hiện
lên rồi biến mất, tất cả những cái thấy (và cái được thấy) và tất cả
những cái nghe (và cái được nghe) đều không hề có gì là “tôi” và “của tôi.” Đó
là chỗ trong Thiền sử, khi một bà cụ hỏi sư Đức Sơn rằng: “Kinh Kim
Cang nói quá
khứ tâm
bất khả đắc, hiện
tại tâm
bất khả đắc, vị
lai tâm
bất khả đắc, xin hỏi Thượng
tọa điểm
tâm nào?” Thế là nhà
sư trả
lời không được. Thế nhưng, nụ cười của ngài Ca-diếp được Đức
Phật khen ngợi, vì thấy được và sống được với “tâm không chỗ nào để trụ.”
Trong cái thấy, cái nghe đó, toàn
bộ quá
khứ, vị
lai và hiện
tại đều bất
khả đắc. Hễ đắc gì đều là trật nhịp ra ngoài Niết-bàn diệu
tâm. Vì trong Pháp
tánh Duyên
khởi, tất cả đều là rỗng rang, là Tánh
không. Nơi đây, để lấy cái “thấy hoa” ra đối
chiếu, trong mục “M.16 Pháp
siêu việt ngôn ngữ” ở sách DVTGP trang 268, trích như sau:
“Pháp
không dao
động, vì không y
chỉ sáu
xứ. Pháp
không đến, không đi, vì không sở trụ. Pháp
thuận hợp Không, tùy hiện Vô
tướng, ứng hợp Vô
nguyện, vì viễn
ly tăng giảm. Pháp
không thủ xả vì viễn
ly sanh
diệt…”
Tương tự, có thể đối
chiếu “cái thấy, cái nghe” của ngài Ca-diếp với mục “M.63 Duyên
khởi và trung
đạo II” nơi trang 423, trích:
“Này Vô
Biên Trang
Nghiêm, các ông, những bậc
trí giả, nên biết như
vầy, tướng chân
thật của tất cả pháp là không đến, không đi, không phân
chia, không gián
đoạn, không đồng nhất tánh, không dị biệt tánh, đến bờ kia cao nhất của
hết thảy pháp. Không có bất cứ pháp nào mà không đến bờ kia. Đến bờ ka chính là
Niết-bàn. Chân
thật tướng của các pháp là Niết-bàn. Vì
vậy, nên biết, là bất
khả thuyết.”
Chúng
ta cũng có thể níu áo ngài Ca-diếp bằng một số kinh khác. Thí
dụ, như Kinh Bahiya, khi Đức
Phật dạy rằng hãy để cái được thấy, được nghe, được tri giác… là cái được
thấy, được nghe, được tri giác… thì ngay nơi đó, không còn sinh
tử luân hồi nào trói
buộc nữa. Nghĩa là, tự thân, thấy nghe hay biết đã là giải
thoát.
Ngài Huệ
Năng cũng dạy cho ngài Huệ
Minh y hệt như thế: “Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác, chính khi ấy cái gì
là Bản
lai diện mục của Thượng
tọa Minh?” Nghĩa là, khi bông hoa của Đức
Phật đưa lên, nếu ngài Ca-diếp (và chúng
ta) còn nghĩ
ngợi bất cứ gì thì ngay khi đó, hoa không còn là hoa đang hiển
lộ trong cái gương tâm tinh khôi của ngài Ca-diếp (và của chúng
ta). Ngay khi hoa đưa lên, nếu chợt khởi
tâm muốn hoa phải thế này, phải thế kia… thì không còn là “cái hoa đang
là” mà là đã, đang và sẽ biến
thành một “cái hoa trong ý
chí ảo tưởng” của người đối
diện.
Có thể dẫn một kinh khác để thấy hoa. Kinh ghi rằng một Thiên
nữ hiện
ra, hỏi Đức
Phật rằng làm cách nào vượt khỏi bộc
lưu. Ý là, làm sao thoát dòng sông của nghiệp
lực. Chúng
ta sống trên đời, sinh già bệnh chết, đi đứng nằm ngồi đều là do nghiệp thúc
đẩy. Bấy giờ, Đức
Phật trả
lời: “Này Hiền
giả, không đứng lại, không bước
tới, Ta vượt khỏi bộc
lưu. Này Hiền
giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền
giả, khi Ta bước
tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền
giả, không đứng lại, không bước
tới, Ta vượt khỏi bộc
lưu.”
Hình ảnh trên dòng sông nghiệp có thể giải
thích về cái nhìn “thấy hoa” của ngài Ca-diếp. Nếu khởi
tâm “thấy không phải là thấy” hay khởi
tâm “nghe không phải là nghe” mà là muốn bước
tới, tức là muốn nắm giữ hay muốn kình chống, tức là “thấy hoa phải là
cái gì khác” thì sẽ chìm. Nhưng nếu nói rằng cứ đứng lại thì là sẽ bị dòng sông
nghiệp kéo chìm (vì chúng
ta luôn luôn bị nghiệp thúc
đẩy, cho tới khi bức màn vô
minh, tức là nghiệp si vén lên). Do vậy, “không đứng lại, không bước tới”
là cái tỉnh
thức của thấy nghe hay biết, và là xa
lìa cả tâm
ba thời quá
khứ, vị
lai, hiện
tại, tức là cái nhìn của tâm vô
tâm, hoàn
toàn vô
sở trụ, không trụ vào ba thời, không trụ vào năm uẩn…
Đó mới đúng là cái “thấy hoa” của ngài Ca-diếp. Trong cái thấy đó, hiển
lộ trong gương tâm
không hơn và không kém, không tới và không lui, một vị bình
đẳng; hễ ai thấy và nghe mà cứ khởi dị
tâm thì tức khắc gương tâm
không còn “thấy hoa” mà chỉ là “thấy cái tâm mình muốn hoa phải là, hay
thấy cái tâm mình muốn hoa không là” và thế là sẽ hiện
ra sáu cõi mịt mù phiền
não. Như vậy, chỉ trong một “cái thấy” và “cái nghe” là có thể thấy tận
Khổ Tập
Diệt Đạo.
Sách DVTGP nơi mục M.66, trang 426 ghi: “…đối
với thế
gian vô
thường bịnh hoạn mà chứng
đắc thường
trụ Niết-bàn; đối với thế
gian không được che
chở, không nương tựa mà che
chở và làm nơi
nương tựa. Vì sao? Vì pháp
không có hơn kém mà chứng
đắc Niết-bàn; vì trí
tuệ bình
đẳng mà chứng
đắc Niết-bàn; vì giải
thoát bình
đẳng mà chứng
đắc Niết-bàn; vì thanh
tịnh bình
đẳng mà chứng
đắc Niết-bàn. Cho nên Niết-bàn chỉ có một vị, vị bình
đẳng, gọi là vị giải
thoát.”
Khi đã hiểu đạo, sẽ thấy tất cả các tông
phái xuyên suốt nhau, không ngăn ngại, dù là Nam
Tông hay Bắc
Tông, dù là Thiền
Tông hay Bát
Nhã, dù là Duy
Thức hay Hoa
Nghiêm, và vân
vân. Cách nói khác nhau, nhưng đều chỉ về một vị giải
thoát.
Thí dụ, nơi đây, chúng
ta thử nói chuyện “thấy hoa” (như thiền thoại Đức
Phật đưa hoa lên và ngài Ca
Diếp mỉm
cười) hay chuyện “nghe tiếng đàn” (như Kinh
Lăng Nghiêm, nói về cội nguồn cái nghe) qua phân tích của Tông Hoa
Nghiêm. Trong sách DVTGP, nơi mục “M.150 Kim sư
tử chương” ở các trang 652-654) viết về luận này của ngài Pháp
Tạng (643-7 12), nhìn thực
tại như là pho tượng sư
tử vàng hiện
lên như “cái được thấy” và chất “vàng” là tánh của các pháp, tức là tướng
(sư
tử) dựa
vào tánh (vàng) để hiển
lộ. Không có “tánh vàng” thì không có “tướng sư tử” và ngược lại.
Như vậy, hình
ảnh hoa là cái được thấy, tiếng đàn là cái được nghe. Do vậy, hoa và nhạc
là “tướng” và dựa
vào “tánh” là duyên
khởi trùng
trùng đưa
tới “hoa ảnh” và “tiếng đàn.”
Trong Tạng A
Hàm, Kinh SA 1169, Đức
Phật dạy về cội gốc của những gì được thấy nghe hay biết đều là do duyên
khởi, là rỗng rang, là cạm
bẫy sinh
tử, chớ nên níu kéo gì hết. Như tiếng đàn, Kinh này viết:
"Này các Tỳ-kheo, thời quá
khứ có ông vua nghe tiếng đàn hay chưa từng có được, nên sanh yêu thích,
say mê, chìm
đắm. Vua hỏi các vị đại thần rằng: ‘Đó là những âm
thanh gì mà nghe khả ái quá vậy?’ Đại thần tâu: ‘Tâu bệ hạ, đó là những
tiếng đàn.’ Vua nói với đại thần: ‘Khanh hãy đem những âm
thanh đó đến đây.’ Đại thần vâng
lời, liền đem cây đàn đến tâu: ‘Tâu đại
vương, đây chính là cây đàn đã tạo ra âm
thanh hay.’ Vua nói đại thần: ‘Ta không cần cây đàn, mà chỉ cần đem
những âm
thanh khả ái đã nghe lần trước đến.’ Đại thần tâu: ‘Cây đàn này cần
phải có nhiều thứ, là phải có cán, có máng, có thùng, có dây, có da và
người đàn giỏi. Cần
phải hội đủ những nhân
duyên này mới thành âm
thanh. Nếu thiếu đi những dụng cụ này thì sẽ không có được âm
thanh. Âm
thanh mà bệ hạ đã nghe trước đây đã qua lâu rồi, chúng đã biến
chuyển và cũng đã diệt mất rồi, không thể đem đến được.’..." (Kinh SA
1169. Bản dịch Tuệ Sỹ, Đức Thắng)
Trở lại chuyện sư
tử và vàng của Hoa
Nghiêm Tông. Như thế, ảnh hoa và tiếng đàn là ví
như sư
tử, tánh
không là ví
như vàng.
Sách DVTGP, trang 653 viết về “1. Minh duyên khởi”: “Cái
ta gọi là vàng vốn không có tự
tánh, tùy
theo duyên thợ công xảo, thời tướng
sư tử hiện khởi. Khởi chỉ do duyên, nên nói là duyên
khởi.” Như thế, chúng
ta thấy, tiếng đàn và ảnh hoa không có tự
tánh, tùy
duyên khởi mới có tướng là cái được nghe và cái được thấy.
Phần “2. Biện sắc không” nơi cùng trang trên, viết: “Cái
ta gọi là ‘sư tử’, tướng của nó là hư, vàng mới là thật. Sư
tử không phải có, chất vàng không phải không, do đó nói là sắc (vàng) và
không (sư
tử). Lại nữa, Không
không có tướng riêng, nhưng nó không chướng
ngại (sắc) huyễn có. Đây gọi là sắc và không.” Như thế, tướng là hư,
tức là ảnh hoa và tiếng đàn (cái được thấy và cái được nghe) là hư, vàng mới là
thật, tức là Không
tánh, hay Pháp
Tánh Duyên
khởi tánh mới là thực.
Tương
tự Hiển vô
tướng nói, “ngoài vàng không
có tướng nào của sư
tử mà bắt nắm được. Do đó, nói là vô
tướng.” Chúng
ta cũng nói, ngoài hoa ảnh và tiếng đàn thì không có tướng nào của Không
tánh hiện
ra, nên có tướng nhưng thực
tướng là vô
tướng.
Tương tự Thuyết vô
sanh nói, “Ngay khi thấy sư
tử sanh, đó chỉ là vàng sanh. Ngoài vàng, không có một vật gì. Sư
tử tuy có sanh
diệt, nhưng vàng không có tăng giảm. Đây gọi là vô
sanh.” Do vậy, hoa ảnh được thấy, tiếng đàn được nghe, chính là Không
tánh sanh
khởi. Hoa ảnh và tiếng đàn có sanh
diệt, nhưng Không
tánh không tăng giảm, nên gọi là vô
sanh.
Tận cùng là “10. Nhập Niết bàn” (DVTGP, trang 654) viết: “Khi
thấy sư
tử và vàng, cả hai tướng (sư
tử và vàng) đều dứt hết, thì phiền
não không sanh. Đẹp xấu hiện
tiền nhưng tâm an
bình như biển
lặng. Vọng
tưởng dứt sạch, không còn bức
bách, thoát triền
phược, lìa chướng
ngại, vĩnh
viễn bỏ xa nguồn khổ. Đây gọi là nhập Niết-bàn.” Tuyệt
vời là như thế, thấy cả hai tướng “tiếng đàn và Pháp
Tánh duyên khởi” đều dứt hết, tâm an
bình như biển lặng…
Không chỉ cái được thấy (hoa) và cái được nghe (tiếng đàn), độc
giả cũng có thể mở sách “Phật Điển Phổ
Thông: Dẫn Vào Tuệ
Giác Phật” và nghiệm về cái được ngửi. Bạn thắp
nhang lên, thấy mùi hương trầm, sẽ thấy “mùi hương” này là “sư tử” và hiển
lộ ra với bạn qua Pháp
tánh Duyên
khởi tức là “Không” hay là “vàng” và bạn có thể tự xét nghiệm từng dòng kinh
luận như thế. Tuyệt
vời là hạnh
phúc, khi sống được từng lời Đức
Phật dạy. Trân
trọng ghi lại vài suy
nghĩ rời nơi đây, và chân
thành mời gọi độc
giả tìm đọc tuyển tập Kinh
luận này.
PHOTO:
Bìa sách “Dẫn Vào Tuệ
Giác Phật” (Photo: sachhuongtich.com)
Hai vị Chủ biên Việt dịch sách DVTGP: Lê Mạnh Thát – Tuệ Sỹ