Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ gì để thuyết pháp

ĐỨC PHẬT ĐÃ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ GÌ

 

ĐỨC PHẬT ĐÃ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ GÌ ĐỂ THUYẾT PHÁP

Trung Thiện

 

Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ gì để tuyên thuyết giáo pháp là câu hỏi được giới nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu trong nhiều thế k qua. Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nghiên cứu chính thức nào đưa ra một kết luận khả dĩ ngoài những giả thuyết về một hình thể ngôn ngữ nào đó đã được Đức Phật sử dụng. Trong khi chờ đợi câu trả lời thỏa đáng cho thắc mắc này, chúng ta có thể y cứ một số dữ kiện được truyền tụng trong thánh điển để tìm ra những lý giải khả tín nhất.

Vấn đề được bắt đầu từ ý tưởng Đức Phật đã sử dụng tiếng Pāli để thuyết pháp của giới Phật giáo Theravāda phát xuất từ quan điểm của ngài Buddhaghosa.

Cullavagga (Tiểu phẩm) của tạng luật Pāli đề cập đến câu chuyện hai vị T-kheo tên là Yameu và Tekula (vốn xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn, có lời nói nhã nhặn, âm điệu ngọt ngào) đã than phiền với Đức Phật rằng: “Bạch Ngài, hiện nay các T-kheo có tên gọi khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy làm hỏng lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch Ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật[1].

Ý nghĩa đoạn ghi chép trên mô tả giáo đoàn thời Đức Phật bao gồm nhiều giai tầng trong xã hội. Họ đến từ nhiều quốc độ với tên gọi, dòng dõi, giai cấp, chủng tộc... khác nhau nhưng cùng chung một lý tưởng, sống đời phạm hạnh, và trong lúc hoằng dương giáo pháp của Đức Phật họ đã sử dụng ngôn ngữ của xứ sở mình. Đối với hai vị Tỷ-kheo Yameu và Tekula, việc dùng phương ngữ để truyền bá giáo pháp là làm mất giá trị lời Phật dạy. Cho nên, họ đã ngỏ lời thỉnh cầu Đức Phật được hoán chuyển lời dạy của Ngài sang dạng có niêm luật.

 Niêm luật (chandaso) ở đây chỉ cho tiếng Phạn Vệà (Vedic Sanskrit), là ngôn ngữ dành riêng cho giới Bà-la-môn, quý tộc và được dùng để lưu truyền thánh thư Vệ-đà thời bấy giờ. Đức Phật không đồng ý lời thỉnh cầu của Yameu và Tekula. Ngài khiển trách hai vị Tỷ-kheo đó, bảo rằng không nên hoán chuyển lời dạy của Phật sang Phạn ngữ, bởi vì Sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các T-kheo, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin nơi những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.Chính vì thế, Đức Phật chỉ thị (nguyên văn Pāli): Anujānāmi, bhikkhave, sakāya niruttiyā buddhavacana  pariyāpuitunti.” Trọng tâm bàn luận nằm ở từ sakāya niruttiyā.

Lời chỉ thị trên được dịch là: “Này các thầy T-kheo, Ta cho phép học tập lời dạy của Phật bằng ngôn ngữ của mình”.

Trong bản chú giải luật tạng, ngài Buddhaghosa giải thích từ sakāya niruttiyā mang ý nghĩa là sự giảng giải được nói ra bởi đấng Chánh Đẳng Giác (Vinaya Atthakatha, Vi, 1214), có nghĩa là Đức Phật dạy các đệ tử học giáo pháp bằng ngôn ngữ của mình tức là tiếng Magadhi như Đức Phật đã dùng. Y cứ sự giải thích này, giới Phật giáo Theravāda tin rằng Tam tạng giáo điển được kiết tập bằng tiếng Magadhi, một ngôn ngữ phổ thông của xứ Magadha, và đây là ngôn ngữ nền tảng trong sự sáng thành tiếng Pāli về sau.

Liên quan đến vấn đề này, chúng ta cũng tìm thấy trong bộ A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa luận của phái Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (Sarvastivada) và một số bản kinh Phật giáo sơ k.

Đại Tỳ-bà-sa luận có dẫn một đoạn luật kể lại câu chuyện Đức Phật dùng thánh ngữ (tiếng Phạn) để tuyên thuyết Tứ đế cho bốn vị thiên vương nhưng chỉ có hai trong bốn vị đó hiểu[2]. Vì lòng thương xót muốn lợi ích cho họ, Đức Phật lần lượt dùng ngôn ngữ bình thường của nước giáp ranh phía nam Ấn Độ (南印度邊國俗語) ngôn ngữ Miệt-lệ-xa để hai vị thiên vương còn lại có thể lĩnh hội được giáo pháp bằng ngôn ngữ của mình.

Đại Tỳ-bà-sa luận cũng cho rằng Đức Phật có thể diễn đạt bất cứ điều gì Ngài muốn nói cho thính chúng bằng bất cứ ngôn ngữ nào và người nghe có cảm giác như Ngài đã dùng các thứ tiếng trong cùng một lúc. “Nếu người Chí-na đến tham gia pháp hội, họ cho rằng Đức Phật sử dụng tiếng Chí-na giảng dạy cho họ. Nhưng nếu có nhiều chủng tộc khác nhau đến tham dự, như người nước Lịch-ca, Diếp-phạt-na, Đạt-thứ-đà, Mạt-bà-khư-sa, Đỗ-hóa-la, Bác-cát-la... tất cả đều cho rằng Đức Phật riêng vì mình sử dụng tiếng của nước mình để thuyết giảng, tùy theo chủng loại khác nhau đều được nghe hiểu[3].

Dựa vào Đại Tỳ-bà-sa luận ta thấy, tùy theo chủng tộc mà Đức Phật dùng phương ngữ tương ứng để thuyết giảng cho người ở đó hiểu được lời dạy của Ngài bằng chính ngôn ngữ bản địa chứ không sử dụng một loại ngôn ngữ cố định. Điều này được Cao Hữu Đính mô tả cụ thể: “Với tín đồ ở Vương-xá, Ngài nói tiếng nước Ma-kiệt-đà; với tín đồ Xá-vệ, Ngài nói tiếng nước Kiều-tát-la; với tín đồ Ba-la-nại, Ngài nói tiếng Ca-thi; với tín đồ Tỳ-xá-ly, Ngài nói tiếng nước Bạt-kì; với tín đồ Kiều-thưởng-di, Ngài nói tiếng Bạt-sa.[4]

Việc sử dụng phương ngữ cũng được ghi nhận trong kinh số 139 - tránh phân biệt thuộc Trung bộ kinh. Ở bản kinh này Đức Phật đã dạy các thầy T-kheo về bảy pháp vô tránh phân biệt, trong đó pháp thứ bảy là “chớ có chấp trước phương ngữ, chớ có đi quá xa ngôn ngữ thường dùng[5].

Đức Phật giải thích rằng, mỗi quốc độ có một ngôn ngữ riêng, ở quốc độ này gọi là pāti nhưng ở quốc độ khác lại sử dụng những từ khác như patta, vittha, serāva, dhāropa, poa, hana pisīla... Vì vậy Đức Phật dạy các vị T-kheo không nên bảo thủ chấp trước cho rằng cách diễn tả bằng ngôn ngữ của mình là sự thật, còn lại là hư vọng; mà chỉ nên tùy thuận y cứ vào cách diễn tả bằng ngôn ngữ ở quốc độ đó để giải thích. Có như vậy mới không chấp trước phương ngữ, không đi quá xa ngôn ngữ thường dùng.

Từ đó cho thấy Đức Phật không đồng ý cho các thầy Tỷ-kheo dựa vào bất kỳ một ngôn ngữ nào làm tiêu chuẩn khi thuyết giảng, mà nên sử dụng một ngôn ngữ người dân thường sử dụng để họ có thể nghe và hiểu được giáo pháp. Điều này đòi hỏi các thầy Tỷ-kheo phải thông hiểu các ngôn ngữ bản địa của mỗi quốc độ, đó cũng là một trong những mong muốn của Tôn giả Ananda đối với một thầy Tỷ-kheo: Thưa Hiền giả Sariputta, có Tỷ-kheo thiện xảo về ý nghĩa, thiện xảo về pháp, thiện xảo về văn cú, thiện xảo về địa phương ngữ, thiện xảo về liên hệ trước sau. Cho đến như vậy, thưa Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo mau chóng đi đến hiểu biết đối với các thiện pháp, sự nắm giữ của vị ấy là khéo nắm giữ, nắm giữ nhiều, và không quên điều đã nắm giữ[6].

Qua những gì đã trích dẫn phân tích, chúng ta thấy rằng một mặt Đức Phật sử dụng phương ngữ để thuyết giảng, mặt khác Ngài khuyên dạy các thầy T-kheo tránh chấp trước vào phương ngữ và nên khéo léo dựa vào ngôn ngữ thông dụng khi giảng dạy cho quần chúng. Hơn thế, nếu đã tồn tại một loại ngôn ngữ bác học dành riêng cho tầng lớp thượng lưu hẳn nhiên phải tồn tại một loại ngôn ngữ bình dân, bởi ngôn ngữ bác học là sự kết tinh, hình thành từ ngôn ngữ bình dân. Từ đó cho ta một lý do để tin rằng một loại ngôn ngữ phổ thông được sử dụng rộng rãi trong quần chúng xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.

Những điều này làm chúng ta chuyển hướng chú ý rằng, thay vì “hỏi Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ gì để thuyết pháp?”, chúng ta hãy đặt vấn đề là “Có một ngôn ngữ chung nào được sử dụng vào thời Đức Phật hay không?”. Có lẽ vấn đề này phải nhờ đến các nhà nghiên cứu, các nhà ngôn ngữ học chuyên sâu. Riêng ở bài viết này, như đã dẫn nói, chỉ y cứ một số dữ kiện được truyền tụng trong thánh điển Phật giáo để tìm ra những lý giải khả tín chứ không thể đưa ra một đáp án mang giá trị chuyên môn được, có chăng chỉ có thể nêu ra một số đề xuất:

1. Tại cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất được tổ chức tại xứ Magadha, nhiều khả năng giáo điển đã được kiết tập bằng một loại ngôn ngữ phổ thông, sử dụng rộng rãi trong đại bộ phận quần chúng lúc bấy giờ. Điều này cho phép chúng ta miễn cưỡng chấp nhận rằng, ngôn ngữ phổ thông đó có thể là tiếng Magadhi của xứ Magadha; đồng thời gạt đi ý tưởng rằng Pāli được sáng thành từ tiếng Magadhi để rồi xem như là ngôn ngữ mà Đức Phật đã sử dụng. Bởi vì, các nhà ngôn ngữ học đã chứng minh Pāli chưa từng là một loại ngôn ngữ nói (spoken languege) mà chỉ là một loại văn ngữ (textual languege) được sử dụng để ghi chép các thánh điển của Phật giáo Theravāda tại Tích Lan vào thế k I tr.TL. Ngay chính từ Pāli khởi thủy dùng để chỉ văn điển hay đoạn văn, không phải để chỉ cho một loại ngôn ngữ.

2. Tra cứu từ kinh tạng sơ k, ta thấy bước chân du hóa của Đức Phật không dừng lại ở một vài vương quốc, giới hạn trong một vài chủng tộc hay giai cấp; cho nên, Đức Phật hẳn phải sử dụng nhiều phương ngữ khác nhau để truyền bá Chánh pháp nhằm giúp mọi người có thể lĩnh hội trọn vẹn lời dạy của Ngài bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình. Nếu giới hạn trong một ngôn ngữ cố định thì sự lợi ích từ lời dạy của Ngài đối với quần chúng sẽ không được nhiều, điều đó trái ngược với bản nguyện thị hiện ở đời của Ngài là “đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người”; không đúng với lời dạy của Ngài dành cho chúng đệ tử trên bước đường hoằng dương Chánh pháp: “Hãy ra đi, các thầy T-kheo, đem sự tốt đẹp đến nhiều người, đem hạnh phúc đến nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc lại cho chư thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngã.... Chính Như Lai cũng đi, Như Lai sẽ đi về hướng Uruvela ở Senānigāma để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu. Hãy mang sự tốt đẹp lại cho người khác. Được vậy, là các con đã hoàn tất nhiệm vụ.”

3. Một điều không thể phủ nhận rằng, không có gì tuyệt vời hơn khi được nghe và hiểu lời Phật dạy bằng chính ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Bằng cách đó cho ta cảm giác gần gũi, trìu mến, dễ đi vào tâm thức hơn bất cứ ngôn ngữ nào khác. Nhưng chúng ta cũng phải chấp nhận một điều rằng, tìm hiểu lời dạy của đấng Giác Ngộ bằng chính ngôn ngữ gốc hay ít ra bằng những ngôn ngữ chuyển tải gần nhất với nội dung và ý nghĩa lời Phật dạy để có thể tiếp xúc được sự uyên nguyên, đầu nguồn của chân lý vẫn là cách tuyệt vời hơn; và Pāli hay Sanskrit rõ ràng là những tia sáng diệu vợi nhất trong nhiệm vụ này mà không ngôn ngữ nào có thể sánh được.

 


 

[1] Indacanda, Tiểu phẩm tập 2, V, chương Các tiểu sự, NXB.Tôn Giáo - Hà Nội, 2014, tr.71.

[2] Đại chánh tân tu Đại tạng kinh, số 1545, A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa luận, quyển 79, Luận về Thập môn, phần 9.

[3] Nguyên văn: [5]那人來在會坐。謂佛T27n1545_p0410a19║為說那音義。如是礫迦葉筏那達陀末T27n1545_p0410a20║婆佉沙覩貨羅博喝羅等人來在會坐。各T27n1545_p0410a21║各謂佛獨為我說自國音義。聞已隨類各T27n1545_p0410a22║得領解。

[4] Cao Hữu Đính (1970), Văn học sử Phật giáo, Thư viện Huệ Quang ấn hành năm 2017, tr.35-36.

[5] Thích Minh Châu dịch (2012), Kinh Trung b II, 139, kinhtránh phân biệt, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.575-576.

[6] Thích Minh Châu dịch (1996), Tăng chi b II, chương V Năm pháp XVII, phẩm Hiềm hận, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr.635.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle