LÒNG TỊNH TÍN CỦA CƯ SĨ CẤP CÔ ĐỘC
Đức Phật, trong cuộc hành trình hoằng pháp suốt 45 năm (theo Nam truyền Phật
giáo) hay 49 năm ( theo Bắc truyền Phật giáo), trên những nẻo đường của xứ
Trung Ấn, những nơi lưu lại bước chân của Bậc Đại Giác, bên cạnh Ngài ngoài
các Thánh đệ tử xuất gia làm công việc tuyên dương giáo pháp còn có các
Thánh đệ tử tại gia hộ trì đắc lực giúp cho Phật giáo ngày càng hưng thịnh.
Trong những vị cư sĩ tại gia hộ trì đắc lực nhất không thể không kể đến đại
trưởng giả
Anāthapiṇdika.
Ông là người tận tụy đóng góp cho Phật giáo đầy đủ về cả hai phương diện đạo
và đời. Về mặt đời, ông đóng góp tích cực vào đời sống của những người nghèo
khó, neo đơn. Về mặt đạo, ông là vị hộ pháp đắc lực, có lòng tịnh tín bất
động đối với Đức Phật và Tăng đoàn, bậc thiện hữu trí thức.
Sudatta
Anāthapiṇdika
theo
giới thiệu của Dictionary of Pāli Proper names: “Sudatta là một
trưởng giả giàu có tại thành
Sāvatthi.
Ông trở nên nổi tiếng nhờ sự rộng lượng không gì bằng đối với Đức Phật”.
Trưởng giả giàu có như ông không chỉ biết
hưởng thụ cá nhân cho riêng mình. Không phải sau khi tìm hiểu Phật pháp ông
mới biết bố thí hay giúp đỡ, việc này có thể được chứng minh qua mỹ hiệu của
ông do người dân đặt ra là Anāthapiṇdika.
Biệt danh là ngoài tên riêng, người dân thường dựa vào đặc điểm, tính cách,
điểm nhấn trong cuộc đời của mỗi người mà gọi tên. Như tên Tôn giả Sariputta
có nghĩa người con của bà Sari. Tên thật của ngài là Upatissa.
Angulimāla có nghĩa là người đeo tràng chuỗi bằng ngón tay. Tên thật của ông
là Ahimsaka. Còn tên thật của trưởng giả là Sudatta nhưng ông thường được
người dân gọi với mỹ hiệu là
Anāthapiṇdika
(Cấp Cô Ðộc), có nghĩa là người nuôi dưỡng những người nghèo khổ
. Từ đây có thể thấy tên ông gắn liền với công
hạnh bố thí, giàu lòng từ ái. Ngoài làm công
việc kinh doanh trên thương trường, ông còn rất quan tâm đến bố thí,
hay làm việc giúp đỡ mọi người, đã cứu giúp vô số người nghèo khó, danh
tiếng vang xa nên người dân mới đặt mỹ hiệu cho ông như vậy.
Nhân duyên gặp Bậc Đại Giác
Nhân duyên Sudatta biết đến Phật pháp là nhân chuyến thăm người anh rễ
Santāna sống tại thủ đô Rājagaha
xây dựng các trú xá, thỉnh Đức Phật và Tăng đoàn cúng dường trai tăng tại tư
gia. Khi được giới thiệu về Đức Phật, Sudatta đã sung sướng thốt lên:
“Này hiền giả, quả thật hy hữu thay trong thế gian này được nghe tiếng Đức
Phật”.
Sudatta là người đã có sẵn thiện tâm rất lớn, nên khi nghe nói qua về danh
từ Đức Phật, trong đêm đó ông đã thức giấc đến hai lần, lòng nôn nao
và mong mỏi được gặp Đấng Giác ngộ. Bóng đêm, nỗi sợ hãi đã
không làm chùn bước chân ông và được sự động
viên của quỷ Dạ-xoa Sīvaka, ông đã
tiến lên. Khi thấy Sudatta sợ hãi, hoảng hốt trước bóng đêm, Đức Phật đã lên
tiếng trấn an: “Hãy đến đây, Sudatta!”.
Trong lần gặp đầu tiên này, Đức Phật đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài
thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của
các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi Ngài biết được tâm của gia chủ
Anāthapiṇdika
đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tịnh tín, Ngài
đã giảng bài pháp Tứ diệu đế. Tâm ông lúc này trong sáng, tĩnh lặng,
một lòng hướng về Chánh pháp, cho nên ông đã thấy được pháp, giải quyết được
mọi hoài nghi và lưỡng lự, thành tựu niềm tin về pháp của Bậc Đạo sư và ông
phát nguyện quy y Đức Phật từ đó cho đến trọn đời.
Giới thương gia như ông có thể rất hiếm khi được nghe giáo lý vi diệu như
vậy và chỉ biết tìm cách bảo đảm công việc kinh doanh của mình được thuận
lợi qua các hình thức yêu cầu cử hành các tế lễ theo Vệ-đà rất tốn
kém. Sẵn có thiện tâm đã huân tập, chỉ qua một đêm dưới sự chỉ bày của Đức
Phật, ông đã thấy rõ chân lý, không còn hoài nghi và đã nói lên sự vui mừng
chứng ngộ của mình: “Bạch Ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã
được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây
đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): những người có mắt sẽ nhìn thấy được hình
dáng; tương tự như thế Pháp đã được Đức Thế Tôn giảng rõ bằng nhiều phương
tiện.”
Có lẽ đây cũng là một trong nhiều lý do ông tìm đến Đức Phật để giải quyết
các mối nghi ngờ trong tâm thức. Trong dịp ở tại
Rājagaha,
ông đã thiết cúng bữa trai phạn cho Đức Phật và hội chúng, cũng nhân sự kiện
này, ông cung thỉnh Đức Phật và hội chúng Tỷ-kheo về an cư mùa mưa tại quê
nhà Savatthi.
Xây dựng tinh xá Jetavana
Sau khi trở về Savatthi, lời nói và uy tín đã thuyết phục nhiều bạn bè cùng
các cộng sự của ông cúng dường và tin theo Phật. Tiếp theo ông nhanh chóng
tìm nơi để xây dựng tinh xá theo lời của Đức Phật: “Này gia chủ, các Đức
Như Lai chỉ thỏa thích ở trú xứ thanh vắng”.
Ông thấy được khu vườn của thái tử Jeta là thích hợp nhất vì nơi đây có
đầy đủ các yếu tố không xa làng mạc, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc
tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông
đảo, ban đêm ít tiếng động, không nhiều gió, tách biệt với dân chúng, thích
hợp cho việc thiền tịnh. Sau vài lần thỏa thuận với thái tử Jeta, cuối cùng
thái tử cũng đồng ý để ông mua khu vườn với giá 10 triệu tiền vàng.
Điều kiện thái tử đặt ra không làm ông Sudatta sợ hãi dù đây là một số tiền
không hề nhỏ. Có thể thái tử cũng đã cảm nhận được sự vi diệu của giáo pháp
Đức Phật nên mới khiến vị trưởng giả này hết lòng như thế và từ lâu đã nghe
danh Đức Phật, nhờ vậy đã thúc đẩy thái tử hiến tặng các cây còn lại trong
khu vườn mà sau này người đời thường gọi là Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên.
Khu vườn được mua hoàn thành, Sudatta đã bắt đầu xây nên
các trú xá, các căn phòng, cổng ra vào, phòng hội họp, nhà để đốt lửa, nhà
vệ sinh, đường kinh hành, giếng nước và nhiều công trình thiết yếu khác. Với
thái độ cung kính Đức Phật, Tăng đoàn và hơn hết ông không muốn để người đời
suy nghĩ Sudatta là người đã xây nên tinh xá này nên có thể làm những gì
mình muốn, ông đã thưa thỉnh Phật về cách làm thế nào để dâng cúng tinh xá
cho đúng pháp. Đức Phật đã dạy ông: “Này gia chủ, chính vì điều ấy ngươi
hãy cho
thiết lập Jetavana dành cho hội chúng bốn phương hiện tại và vị lai”.
Đức Phật đã tán thán công đức của ông bằng bài kệ:
Từ nơi ấy, chúng (các trú xá) ngăn ngừa sự nóng, sự lạnh, và các loài thú
dữ, các loài rắn, và các muỗi mòng, và luôn cả luôn các cơn mưa lạnh. Từ nơi
ấy, cơn gió nóng dữ dội đã sanh lên bị dội lại. Với mục đích hướng về sự
nương náu, với mục đích về sự an lạc, để thiền định, và để hành minh sát. Sự
bố thí trú xá đến hội chúng đã được Đức Phật ngợi khen là tối thắng.
Con người thường có đời sống
sung túc về vật chất thì sẽ sa đọa vào các thú vui chơi bất thiện, ít khi
quan tâm đến những thứ xung quanh, ngay cả đạo lý làm người. Nhưng Sudatta
thì khác, ông tuy là một thương gia giàu có, phải chu toàn các mối quan hệ
trong gia đình và bên ngoài xã hội, không phải vì vậy mà ông quên đi trách
nhiệm của mình đối với đời sống xã hội và trách nhiệm của người cư sĩ đối
với Tam bảo. Ngoài đời sống đầy đủ tiện nghi về mặt vật chất, đem của cải đi
cứu giúp mọi người, ông cũng rất quan tâm đến đời sống tâm linh. Qua việc
ông đã dốc hết công sức và của cải để thuyết phục mua lại khu vườn của thái
tử Jeta bằng bất cứ giá nào để xây nên tinh xá Jetavana làm nơi cư trú cho
Đức Phật và Tăng đoàn. Ông muốn lan tỏa giáo Pháp của Phật đến toàn xã hội
nói chung và nơi ông sinh sống là Savatthi nói riêng. Giúp cho người dân
được gần gũi với Đức Phật là giúp họ học hỏi tư cách, đức độ, trí tuệ siêu
việt của Ngài và học hỏi từ chư Tăng giáo lý, đời sống thanh cao, phạm hạnh
của Tăng đoàn, từ đây họ thấy được bản chất của sự thật, hiểu đúng, làm
đúng, không còn bị mê mờ bởi các học thuyết sai lầm, nhờ vậy cư dân tại
Savatthi và ngay chính bản thân ông cũng hưởng được quả ngọt của Chánh pháp
trong cuộc đời. Chính vì điều này nên mỗi khi Đức Phật vắng mặt tại tinh xá
Jetavana, dân chúng Savatthi vẫn thường đến đây đặt vòng hoa trước hương
thất của Phật để tỏ lòng tôn kính, và qua việc này Đức Phật gợi ý nên trồng
một cây bồ-đề tại tinh xá Jetavana để cho dân chúng khi đến đây đảnh lễ cây
bồ-đề có cảm nghĩ như đảnh lễ Đức Phật trong khi Ngài vắng mặt, và cây bồ-đề
này do chính Sudatta trồng.
Hộ trì Tăng đoàn
Từ khi thỉnh Phật và chư Tăng
về Savatthi an cư thuyết pháp, hằng ngày
trong nhà ông lúc nào cũng đầy đủ thức ăn cúng dường cho 500 vị Tỷ-kheo.
Nhà ông giống như cái giếng trong xanh ở ngã
tư đường cho chúng Tỷ-kheo, như ngôi nhà cha mẹ đối với tất cả đại chúng.
Trong khi Đức Phật còn ở Jetavana, mỗi ngày vị trưởng giả đi đến tinh xá ba
lần để cúng dường: một vào buổi sáng, một vào buổi trưa, và một vào buổi
chiều. Ngoài ra, ông còn thực hiện nhiều sự hộ trì khác. Trong Tăng đoàn,
ông đều cúng dường bình đẳng hết thảy. Buổi sáng ông đem theo cháo, sau buổi
ăn sáng đem theo bơ chín, bơ tươi, mật ong, đường mật. Buổi chiều ông đem
theo hương liệu, vòng hoa, vải may y. Ngày này qua ngày khác, ông đều làm
như vậy, không biết mệt mỏi.
Học theo trưởng giả Sudatta, vua Pasenadi cũng cúng dường trai
tăng cho các Tỷ-kheo, tuy vậy trong cung vua không ai tỏ ra thân thiết với
Tăng chúng.
Các quan quân thực hiện việc cúng
dường giống như một mệnh lệnh, chỉ có
hình thức vật chất mà không có giá trị tinh thần; họ không có một niềm kính
ngưỡng xứng đáng nào đến chư Tăng. Vì vậy, chư Tăng dù nhận thức ăn
trong cung nhưng bỏ đi nơi khác để thọ thực. Ngược lại, cách cúng dường của
Sudatta đã thể hiện sự cung kính đối với Đức Phật và chư Tăng; ông
trông nom chăm lo Tăng đoàn giống như bậc phụ mẫu.
Sudatta đã tận tâm tận lực mà không nghĩ đến châu báu nào khác ngoài ba ngôi
báu Phật, Pháp, Tăng.
Lòng tịnh tín bất động
Do bố thí không ngừng nghỉ,
tiền thâu vào ít dần, tài sản của ông dần cạn kiệt. Ông rơi vào cảnh nghèo
thiếu, gia sản, áo quần, sàng tọa, thực phẩm không còn được như xưa. Dầu ở
trong tình trạng như vậy, Sudatta vẫn cúng dường chúng Tăng, tuy rằng không
thể cúng dường các món tốt đẹp. Kinh sách thuật lại rằng trong nhà ông có
một vị nữ thần có tà kiến thường trú. Nhà ông có bảy tầng lầu và có bảy cửa
gác, và nữ thần sống trên cửa gác thứ tư. Khi Đức Phật và các vị Đại Trưởng
lão đến nhà ông thọ trai, thần nữ ấy không ở được trong lầu của mình, đã đem
theo mấy đứa con nhỏ xuống ở tại tầng cuối cùng. Bà suy nghĩ: "Khi Sa-môn
Gotama và các đệ tử vào nhà này, ta không được an lạc; ta không thể luôn
luôn xuống tầng trệt được. Ta phải làm thế nào để những người ấy không đến
nhà này nữa". Bà đã đi nói với người tổng quản, con trai của ông và
chính ông, khuyên đừng nên cúng dường Tăng đoàn nữa. Nhưng lòng tin
của ông như núi Tu-di bất động, vững tin vào giáo pháp của Đức Phật. Về sau
bà hối lỗi, đã giúp ông lấy lại tài sản những người đã thiếu nợ ông, của cải
trôi ra biển, và sau đó ông lại giàu có như trước.
Câu chuyện này cho thấy rằng, dù lúc ông giàu có hay khi gia sản khánh kiệt,
ông đều một lòng vững tin vào Đức Phật và giáo pháp của Ngài. Đây chính là
lòng tịnh tín bất động của ông đối với Đức Phật và Tăng đoàn, không ai có
thể thay đổi được lòng tịnh tín ấy. Vì những công đức ông đã làm đối với
Tăng đoàn và xã hội đương thời, Đức Phật đã tán thán việc làm của ông:
“Trong các vị đệ tử nam cư sĩ của Ta đã bố thí, này các Tỷ-kheo, tối thắng
là gia chủ Sudatta Anāthapiṇdika”.
Đối đáp với ngoại đạo
Qua nhiều năm được gần gũi và học hỏi giáo lý trực tiếp từ Đức Phật, ông
không còn là một trưởng giả chỉ biết cúng dường, giúp đỡ người nghèo khó như
trước nữa, mà đã trở thành một người cư sĩ thông thạo giáo pháp của Phật.
Trong một cuộc tranh luận với ngoại đạo, Sudatta đã trả lời một cách thông
minh, thiết thực, rõ ràng những câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo về các quan
kiến của Sa-môn Gotama, của các Tỷ-kheo và của chính mình:“Phàm cái gì
được sinh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là
vô thường, cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là: Cái này
không phải của tôi; cái này không phải là tôi; cái này không phải tự ngã của
tôi…”. Câu trả lời không những chứng minh biện tài ứng khẩu đối đáp của
ông, mà còn nêu rõ ông đã hiểu giáo lý của Phật một cách sâu sắc. Ông đã
trình bày kiến giải của mình theo giáo lý của Đức Phật, đánh bại những luận
điểm sai trái của ngoại đạo. Lời giải đáp ấy của Sudatta đã làm cho các du
sĩ ngoại đạo ngồi im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ không nói
nên lời. Sau câu chuyện đó, Đức Phật đã nói pháp khích lệ, làm cho ông phấn
khởi sinh tâm hoan hỷ, và tán thán ông trước hội chúng rằng: “Tỷ-kheo
nào, dù đã được đầy đủ 100 năm an cư mùa mưa trong Pháp và Luật này, vị ấy
cần phải như vậy, thường thường bác bỏ các du sĩ ngoại đạo, với sự khéo léo
bác bỏ nhờ Chánh pháp, như gia chủ
Anāthapiṇdika
đã khéo léo bác bỏ”.
Qua đây có thể thấy ông không chỉ là một người cư sĩ biết làm phước, bố thí,
cúng dường một cách đơn thuần mà ông còn là một người cư sĩ trí thức, hiểu
sâu và hiểu đúng những lời Bậc Đạo sư đã dạy.