HUYỀN-THOẠI-DUY-MA-CẬT
Hóa Giải Mọi Băn Khoăn
Của Tôi
Huệ Trân
Trong kho
tàng
châu ngọc
kinh điển Đại Thừa,
có hai cuốn mà
phương danh cư sỹ
đã được dùng để đặt tựa.
Đó là Kinh Thắng Man và
Kinh Duy Ma Cật,
vì nội dung chính là
tuyên lại những
lời Phật dạy,
lồng trong bối cảnh khi
Thắng Man phu nhân
thưa thỉnh và khi
Duy Ma Cật dùng
thân bệnh để
diễn đạt
chí hướng và
hành trạng của
Bồ Tát qua những
hình thức
biện luận cùng
chư vị
Bồ Tát đến thăm.
May mắn thay, tôi
có được cả hai cuốn này:
Thắng
Man Giảng Luận
và
Huyền Thoại Duy Ma Cật,
đều được thầy Tuệ Sỹ
cẩn trọng
biên soạn.
Riêng
Kinh Duy Ma Cật,
tôi từng âm thầm
khổ tâm khi học!
Tôi tin
rằng không người học
Phật nào không
công nhận
Kinh Duy Ma Cật
là một
Kinh Đại Thừa
chứa đựng
mênh mông
tư tưởng
thâm sâu,
uyên áo. Mỗi
giai thoại, mỗi
câu nói trong đó đều
ẩn dụ những
huyền nghĩa sâu
sa, kẻ
sơ cơ như tôi,
không biết đến kiếp nào
mới hiểu hết!
Tôi biết
thế, nhưng mỗi lần đọc,
tôi đều không tránh được
cảm giác khó chịu,
khi
lần lượt những
Đại Đệ Tử của
Đức Thế Tôn đều
ngần ngại khi
phải đi thăm bệnh cư-sỹ
Duy Ma vì các vị
đều từng bị ông cư-sỹ
này chê trách!
Cảm giác này luôn
khởi lên song song với
niềm
nghi ngờ “Lẽ nào
lại thế! Lẽ nào các vị
xuất gia đã
tinh thông
nghĩa lý
thâm diệu của
Đạo Pháp lại
trở thành như
những đứa trẻ nhỏ khờ
khạo trước một người
cư-sỹ
tại gia, dù người
đó có tài trí đến đâu!
Vậy thì, khi một
Kinh Đại Thừa
được trình bày như vậy,
hẳn đằng sau những
hình ảnh
cố tình phô diễn
này là những
ẩn dụ gì đây?”
Tuy khởi
được
nghi ngờ như thế,
nhưng vì quá
vô minh, tôi đã
chẳng
tìm ra được một
ẩn dụ nào! Nhưng
vì Kinh có những đoạn
quá hay, nên tôi không
để yên trên kệ
được, mà
thỉnh thoảng lại
mang ra đọc.
Những đoạn
hay như đoạn Thiên-nữ
rải hoa. Hoa rắc
trên thân Chư
Bồ Tát thì liền
rơi xuống đất mà rắc
trên thân các vị
Đại Đệ Tử thì vẫn
bám vào áo. Ngài
Xá Lợi Phất phủi
mãi không được.
“Thấy
vậy,
Thiên nữ hỏi
Xá Lợi Phất:
-Sao
ngài phủi hoa đi?
Xá Lợi Phất đáp:
-Hoa này
không
như pháp nên phải
phủi đi.
Thiên nữ nói:
-Đừng
bảo hoa này không
như pháp. Vì sao?
Vì chúng không có gì
phân biệt mà
chính ngài đang
khởi tâm
phân biệt. Nếu
người
xuất gia trong
Phật pháp mà còn
có cái
phân biệt, cái đó
mới là không
như pháp.” (*)
Hoặc đoạn
đối đáp giữa ngài
Xá Lợi Phất và
cư-sỹ
Duy Ma Cật:
“Duy Ma
Cật hỏi
Xá Lợi Phất:
-Ngài
nghĩ thế nào,
ánh mặt trời khi
xuất hiện có hiệp
cùng bóng tối hay không?
Xá Lợi Phất đáp:
-Chỗ nào
có
ánh mặt trời thì
không còn bóng tối.
Duy Ma Cật lại
hỏi:
-Vì sao
ánh mặt trời soi
dọi cõi Diêm-phù-đề này?
Xá Lợi Phất
trả lời:
-Đem ánh
sáng soi dọi để xua tan
bóng tối.
Duy Ma Cật bảo:
-Bồ Tát
cũng vậy, tuy sinh nơi
cõi Phật
bất tịnh để
giáo hóa
chúng sinh nhưng
không hiệp cùng với sự
ngu ám, mà chỉ để
diệt trừ bóng tối
phiền não của
chúng sinh.”(*)
Nhưng ở
chương nói về
Pháp Môn Bất Nhị
thì tôi không thể
an lạc được khi
cư-sỹ
Duy Ma Cật hỏi
các vị
Bồ Tát
hiện diện “thế
nào là
Bồ Tát vào cửa
Pháp-Bất-Nhị?”
Sau khi 33
vị
Bồ Tát
lần lượt dùng
những
hình ảnh và
trạng huống tương
phản để
trả lời câu hỏi
một cách rất
minh bạch, rất
xuất sắc thì ngài
Văn Thù Sư Lợi là
người
cuối cùng mới hỏi
lại
Duy Ma Cật:
“Chúng
tôi, mỗi người đã
nói rồi, xin nhân-giả
cho biết thế nào
là Bồ-Tát vào cửa
pháp-bất-nhị?
Bấy giờ,
Duy Ma Cật
lặng im không
nói.
Văn Thù Sư Lợi
tán thán:
-
Lành thay!
Lành thay!
Cho đến không còn
văn tự và
ngôn thuyết, ấy
mới thật là vào cửa
pháp-bất-nhị.” (*)
Tôi thấy
chỗ này … bất công qúa!
Chắc gì sự
im lặng của
Duy Ma Cật đã là
câu
trả lời tuyệt
chiêu? Biết đâu 33 câu
trả lời của Chư
Bồ Tát đã quá đủ,
không còn câu nào dành
lại cho
Duy Ma Cật nên
cư-sỹ đành … im lặng?
Mãi
cho đến hôm nay,
khi say mê
lần theo từng
trang “Huyền Thoại
Duy Ma Cật”
của Thầy Tuệ Sỹ
biên soạn, không
ít lần tôi phải buột
miệng thốt lên: “Vi diệu
quá!
Hạnh phúc quá!”
Tôi muốn
chia xẻ niềm vui
này với quý
đạo hữu vì từ
nay,
đọc Kinh
Duy Ma Cật, tôi
sẽ không còn băn khoăn,
khổ tâm nữa!
Hãy chỉ đan cử
trường hợp ba
Đại-đệ-tử hàng đầu của
Đức Thế Tôn là
các ngài Xá-Lợi-Phất,
Ma-Ha-Ca-Diếp và
Mục-Kiền-Liên bị
Duy Ma Cật chất
vấn đến mức không dám đi
thăm bệnh cư-sỹ khi
Đức Thế Tôn đề
nghị.
Ngài
Xá Lợi Phất đã từ
chối, vì
một lần
Duy Ma Cật gặp
ngài
ngồi thiền định
nơi vắng vẻ, đã
chê trách rằng:
“Bất tất
ngồi như vậy mới là
tĩnh tọa. Không
hiện thân và ý ở
trong
ba cõi, ấy mới là
tĩnh tọa. Hiện
các
oai nghi mà không
xuất
diệt tận định, ấy
mới là
tĩnh tọa.
Hiện thân làm
việc
phàm phu mà không
xả
Đạo pháp, ấy mới
là
tĩnh tọa …”
Trong Huyền
Thoại
Duy Ma Cật, thầy
Tuệ Sỹ đã
dẫn giải rằng:
“Bậc
Thánh đã
xuất ly
ba cõi, vượt xa
ngoài
thế giới đầy xáo
động này, đó là nguồn
an lạc do
viễn ly và
xuất ly. Nhưng
nếu bậc Thánh ấy
trở lại
thế gian này,
hiện thân và ý
như
phàm phu ngay
giữa
thế gian này mà
tâm tư vẫn
xuất ly ngoài
ba cõi, đó là
đời sống
viễn ly
chân thật. Qua
đó, những lời
phát biểu của
Duy Ma Cật là
tán dương hay
chỉ trích
Xá Lợi Phất?” (+)
Ôi, thật
thâm sâu! Có thế chứ!
Những con mắt
vô minh như tôi,
đứng trước cồn cỏ
che khuất, làm
sao thấy được
núi Tu Di là cao!
Làm sao thấy hết “tâm
bao
thái hư, lượng
châu sa giới” của
bậc Thánh!
Rồi đến
Ma-Ha-Ca-Diếp, người
đệ tử
duy nhất được
Đức Phật trao cho
chiếc y
phấn tảo của
ngài, cũng là đối tượng
của cư-sỹ
Duy Ma Cật:
“Theo
truyền thuyết
thường kể,
Đại Ca Diếp có
tâm
ưu ái
đặc biệt với
người nghèo nên thường
chỉ
khất thực từ nơi
nhà nghèo.
Cho đến cả
Thiên Đế Thích,
khi muốn
cúng dường
Đại Ca Diếp cũng
phải
biến hóa thành
một bà lão
nghèo khó để được
ngài thọ nhận.
Ngay khi
ấy,
Duy Ma Cật
xuất hiện và nói:
Kính
thưa ngài
Ma Ha Ca Diếp, có
tâm từ bi mà
không rộng khắp nên ngài
bỏ nhà hào phú mà
xin nhà bần hàn.” (+)
Giai thoại này,
Huyền-Thoại-Duy-Ma-Cật
hóa giải chỉ bằng một
câu ngắn:
“Nếu nói
là
phương tiện
thị hiện,
Đức Phật
từ bỏ Tịnh-độ mà
hiện nơi uế trược thì có
khác gì Ca-Diếp
bỏ nhà giầu để
đến với người nghèo?”(+)
Ôi,
đơn giản có thế
mà tôi
khổ tâm bấy lâu
vì không biết làm sao
biện minh cho vị
Đại-đệ-tử, từng được
nhận
Chánh-pháp-nhãn-tạng
Đức Phật trao
truyền và
trở thành vị Tổ
Thiền đầu tiên,
gieo trồng bao hoa trái
nhiệm mầu cho hàng hậu
học.
Trường hợp
Đại-thần-thông
Mục Kiền Liên mới
thật là
vi tế.
Học Phật,
chúng ta đều biết
rằng
Đức Thế Tôn từng
nhiều lần từ chối xử
dụng
thần thông để
thuyết pháp vì
“Không ích gì khi có khả
năng biến hóa một
người tí hon thành khổng
lồ hoặc làm
thân hình bốc lửa
các thứ. Chỉ đáng tán
thưởng khi
phép lạ là khả
năng biến một
con người hung ác
thành một bậc Thánh
từ tâm
quảng đại. Đó là
phép lạ của
sự giáo dục. Đó
là
Giáo Giới Thị Đạo.”
(+)
Nhưng để có đủ mọi
phương tiện uyển
chuyển,
Đức Thế Tôn đã
ngầm trao
đặc quyền xử dụng
thần thông cho
Mục Kiền Liên mà
thôi. Nhưng khi
Duy Ma Cật chất
vấn
Mục Kiền Liên thì
lại không là lúc ngài xử
dụng
sở trường, mà
ngài lại đang
thuyết pháp cho
hàng cư-sỹ về các pháp
tu để
nhận thức được
thân này là không thực,
là
tồn tại với một
tự ngã.
Đây chính
là một
dụng ý tuyệt
chiêu của
tinh thần
Đại-thừa.
Duy Ma Cật đến
trước
Mục Kiền Liên mà
nói rằng:
“Thưa
ngài
Mục Kiền Liên,
Pháp không
chúng sinh vì
xa lìa cáu bẩn
của
chúng sinh.
Pháp không
thọ mạng vì
xa lìa
sinh tử.
Pháp không có
con người vì
tiền tế và
hậu tế đều cắt
đứt.
Pháp thường
tịch nhiên vì
diệt các tướng. Pháp lìa
ngoài tướng vì không
sở duyên.
Pháp không
ngôn thuyết vì
lìa các quán.
Pháp không
hình tướng vì như
hư không …Pháp
như vậy, làm sao
thuyết?”(+)
Nhưng
thực tế, suốt 49
năm hoằng hóa,
Đức Phật đã không
ngừng
thuyết pháp và
trước khi
nhập diệt, ngài
bảo các đệ-tử: “49
năm qua, ta chưa từng
nói lời nào”. Vậy
lời
Duy Ma Cật chất
vấn
Mục Kiền Liên có
phải là
chê trách không?
Hay đây chính là lời
tán thán về “Phép
lạ của
sự giáo dục”
trong
tinh thần:
“Người
thuyết pháp thì
không
diễn thuyết,
không khai thị. Người
nghe thì không nghe,
không sở đắc. Như
con người huyễn
giảng pháp cho
người huyễn nghe. Sự
thuyết pháp như
vậy quả là
thần thông
diệu dụng.” (+)
Sự
dẫn giải trong
Huyền-Thoại-Duy-Ma-Cật
thật cô đọng:
“Duy Ma
Cật không đợi lúc
Mục Kiền Liên
đang hiện
thần thông để đối
biện, mà đến ngay lúc
Mục Kiền Liên
đang
thuyết pháp.
Chính ở đó
Duy Ma Cật chỉ
lối
đi vào
cảnh giới
thần thông của
Phật” (+)
Cứ
tuần tự, nhẩn nha
như thế, từng trang
Huyền-Thoại-Duy-Ma-Cật
đã hóa giải mọi khúc mắc
trong tôi, cho thấy
trong mọi môi trường,
người cư-sỹ
trí tuệ
vô song đó đều
“cùng làm việc” với
Chư
Bồ Tát và các
Đại-đệ-tử của Phật, chứ
không phải là
chê trách nhau.
Quý ngài
cùng làm việc trong chủ
trương đưa ra những
hình ảnh và
ngôn từ tương
phản, hầu làm
sáng tỏ hơn những
tư tưởng quá
thâm sâu,
uyên áo trong
giáo pháp
Đại-thừa, mà với những
phương cách
bình thường khó
đạt được.
Như trên
sân khấu phải có vai
người thiện, kẻ ác, có
người khôn, kẻ dại thì
người xem mới nhìn ra
chân lý.
Có thế, khán
giả vô minh như
tôi mới được
hoan hỷ ra về
bằng lời
dẫn giải của thầy
Tuệ Sỹ về chương
Pháp Môn Bất Nhị.
Đó chính là chương tôi
cảm thấy “bất
công” sau khi 33 vị
Bồ Tát
trả lời câu hỏi
về Bất-nhị, chẳng được
công nhận gì; còn
Duy Ma Cật, chỉ
im lặng mà được
ca ngợi là không
còn
văn tự và
ngôn thuyết, ấy
mới thật là vào cửa
Bất-nhị!
Thì đây,
Huyền-Thoại-Duy-Ma-Cật
nhẹ nhàng
dẫn giải thế này:
“Nếu
Văn Thù không
cất tiếng
ngợi khen, dễ có
ai
khám phá ra
ngôn ngữ của
vô ngôn trong sự
im lặng của
Duy Ma Cật? Nếu
bậc
Giải Không Đệ
Nhất không
tỏ ra khiếp đảm ở
đây,
phàm phu nào
khám phá được
cảnh giới
tịch mặc
vô ngôn trong
ngôn ngữ
lý luận
ly kỳ của
Duy Ma Cật?” (+)
Như kẻ mù
vừa được sáng mắt, như
người
lần mò trong
tối tăm vừa được
dắt ra khỏi hang động,
tôi đọc mãi câu này
không chán, tưởng như
từng nét chữ với
hình ảnh rõ rệt
đã dính vào mỗi tế bào.
Xin
đa tạ Thầy Tuệ
Sỹ.
Xin
đa tạ
Huyền-Thoại-Duy-Ma-Cật.
NAM
MÔ
CÔNG ĐỨC LÂM
BỒ TÁT MA HA TÁT.
Huệ Trân
(Trụ thất, ôn bài)
(*)
Kinh Duy Ma Cật
Sở Thuyết - Thích Tuệ
Sỹ Kinh
Duy Ma Cật Sở Thuyết
(+) Huyền Thoại
Duy Ma Cật -
Thích Tuệ Sỹ Huyền
Thoại Duy Ma Cật
Thắng
Man Giảng Luận
TVHS