Ngừa Hoạnh Tử, Tăng Thọ, Niệm Tử
Ngừa Hoạnh Tử
Ngừa Hoạnh Tử, Tăng Thọ, Niệm Tử
Nguyên Giác
Đại dịch coronavirus tính tới tuần lễ giữa tháng 7/2020 đã giết chết hơn 593.000
người trên toàn cầu, với hơn 13,9 triệu người lây nhiễm, theo thống kê của Johns
Hopkins University. Trong đó, Hoa Kỳ là quốc gia chịu thiệt hại nặng nề nhất,
với hơn 3,6 triệu người lây nhiễm và ít nhất 138.979 người đã chết. Một vài
thành phố ở Texas và Arizona mua hay thuê xe thùng đông lạnh để giữ xác, vì
nhiều nhà quàn hết chỗ, không chôn kịp. Một số khu vực đông người gốc Việt ở
Quận Cam, San Jose, Houston trong tuần qua tăng vọt số người đã có kết quả thử
nghiệm dương tính. Trong những người chết vì đại dịch trong cộng đồng có những
bạn còn trẻ, ở lứa tuổi 30s, 40s, và cũng có bạn là Phật tử rất mực đạo hạnh.
Bài này sẽ nói về các trường hợp chết khi tuổi thọ vẫn đang còn, về cách tăng
thọ, và về pháp niệm sự chết theo lời Đức Phật dạy.
Chết hoạnh tử
Đại dịch xảy ra là do duyên nhiều đời trước đối với các quốc độ đó, nhưng không
phải ai cũng bị ảnh hưởng. Dù vậy, theo kinh Phật, chắc chắn rằng trong những
người chết vì đại dịch có những người đã chết trong khi tuổi thọ vẫn đang còn,
tức là chết yểu, chết sớm, chết không đúng thời, khi chưa hết tuổi thọ kiếp này.
Người xưa gọi chết sớm, tức là khi nghiệp dữ khác bất ngờ xen vào trước khi
nghiệp kiếp này mãn, bằng nhiều chữ: hoành tử, hoạnh tử, phi thời tử, bất lự tử,
sự cố tử. Tiếng Anh gọi là “untimely death” hay “premature death”, và Kinh tạng
Pāli gọi là “uppachedaka death.” Trong khi kinh Dược Sư, thuộc hệ Bắc
tông, giải thích rằng chết hoạnh tử có 9 loại khác nhau. Kinh Milinda vấn đạo
thuộc hệ Nam tông nói rằng chết hoạnh tử có 7 loại.
Kinh Milinda vấn đạo do ngài Indacanda dịch (một số bản dịch của các dịch
giả khác có nhan đề là kinh Na Tiên Tỳ-kheo, Mi Tiên vấn đáp) đã giải
thích về việc chết không đúng thời là như trái non bị rụng hay bị cắt từ cây
xoài. Lời ngài Nagasena trong kinh này như sau:
“Tâu đại vương, bảy hạng người này chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi
thọ vẫn đang còn. Bảy hạng nào?
Tâu đại vương, người bị thèm ăn, trong khi không nhận được vật thực, có nội tạng
bị tổn thương, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị thèm uống, trong khi không đạt được nước uống, trái tim
bị khô kiệt, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị rắn cắn, bị hành hạ bởi tác động của nọc độc, trong khi
không đạt được người chữa trị, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn
đang còn.
Tâu đại vương, người đã ăn vào chất độc, trong khi các bộ phận cơ thể chính và
phụ đang bị nung nóng, trong khi không đạt được thuốc giải, chết không đúng thời,
ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị rơi vào ngọn lửa, trong khi bị thiêu đốt, trong khi
không đạt được sự dập tắt, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn
đang còn.
Tâu đại vương, người bị té vào nước, trong khi không đạt được sự nâng đỡ, chết
không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, người bị thương tích bởi gươm đao, bị lâm bệnh, trong khi không
đạt được thầy thuốc, chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ vẫn đang còn.
Tâu đại vương, bảy hạng người này chết không đúng thời, ngay trong khi tuổi thọ
vẫn đang còn.”(1)
Tác phẩm Abhidhamma in Daily Life (A-tỳ-đạt-ma trong đời thường) của
Ashin Janakabhivamsa(2) có những
giải thích về các trường hợp hoạnh tử. Những trường hợp “uppachedaka death” là
chết không đúng thời, chết không tự nhiên, vì một số chúng sinh lẽ ra còn tuổi
thọ và nghiệp lực còn cho phép họ sống. Nhưng vì một vài nghiệp ác đã làm trong
quá khứ đột ngột trổ quả, gây ra cái chết không đúng thời. Bộ luận
A-tỳ-đạt-ma giải thích rằng cái chết đó y hệt như một ngọn lửa đột ngột tắt
vì trận gió bất ngờ, trong khi bấc và dầu vẫn còn, và cũng y hệt như có ai thổi
mạnh làm tắt nến.
Bộ luận này dẫn ra trường hợp ngài Moggallana (Mục Kiền Liên, là người thần
thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật), rằng ngài trong một kiếp lâu xa đã
giết mẹ của mình. Tội ác đó làm ngài chết thảm, ngay cả sau khi ngài đã đắc quả
A-la-hán, bị 500 tên cướp tấn công và giết. Vua Bimbisara (Tần Bà Sa La, hay
Bình Sa Vương - là đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca trong hàng vua chúa, ông đã
cúng dường cho Phật và Tăng đoàn ngôi tịnh xá Trúc Lâm gần thành Rājagaha, thủ
đô xứ Magadha) trong một kiếp trước đã mang giày vào chùa với thái độ bất kính,
và quả dữ là vua này bị chính con trai giết. Trường hợp khác: Hoàng hậu Samavati
(của vua Udena tại vương quốc Cozambi) và hơn 100 cung nữ bị thiêu chết. Bà
Samavati được Đức Phật ca ngợi là đệ nhất tâm từ trong các môn đệ của Ngài; và
Ngài kể rằng trong một kiếp trước, bà và các bạn dữ dùng lửa đốt chết một vị
Bích Chi Phật trong khi vị này đang thiền định.
Bộ luận này cũng nói rằng có một số cái chết trong khi còn tuổi thọ là vì quả dữ
tới tức khắc vì một việc ác vừa mới làm. Đó là trường hợp Dusi ném đá vào đầu
của Kassapa, trường hợp Nanda đánh vào đầu ngài Shariputra, và trường hợp vua
Kalabu ra lệnh giết vị ẩn tu có tên là Khanti Vadi. Cả 3 vị - Dusi, Nanda và vua
Kalabu - bị đất nứt ra và nuốt chửng xuống ngay trong kiếp đó, vì quả dữ tới
trong khi còn tuổi thọ. Tương tự, người xúc phạm hay hạ nhục cha mẹ, người
trưởng thượng cũng sẽ bị chết hoạnh tử.
Một điểm quan trọng nên nhớ rằng kinh điển không chỉ để tụng đọc, mà cần tu tập,
thực hành. Vì nếu chỉ tụng đọc kinh điển hàng ngày mà không tự thực hành để
chuyển biến tâm mình thì lợi ích chẳng bao nhiêu.
Trong một bài viết có nhan đề “Khảo biện về kinh Dược Sư” của Thầy Chúc
Phú, nói rằng người trí tuệ cần tránh nhân duyên gặp nạn, và cần phải thực
hành lời Phật dạy, chớ đừng nghĩ rằng tụng kinh hàng ngày là đủ:
“Trong kinh Phật thuyết cửu hoạnh, Phật dạy rằng, nếu như gặp phải voi say,
ngựa chứng, bò điên, xe cộ, rắn độc, hầm hố, nước, lửa, chiến loạn, người say,
kẻ xấu cũng như bao điều tệ ác khác… nếu bậc có trí tuệ thì sẽ biết và tránh các
nhân duyên đó để bảo toàn tính mạng...
...Tụng kinh để trú tâm trong thắng pháp, để hiểu lời Phật dạy và sau đó thực
hành. Diệu dụng của pháp Phật chính là ở đây. Siêng năng trì tụng kinh điển
nhưng không thực hành, thì tuy có phước đức, nhưng rất nhỏ nhoi và khó có thể
đem đến những kết quả ưu thắng.”(3)
Pháp tăng tuổi thọ
Tới đây, chúng ta có thể nêu lên câu hỏi: Làm cách nào để tăng tuổi thọ? Đức
Phật đưa ra lời khuyên trong các kinh, có thể tóm lược rằng: phải ăn điều độ,
phải giảm cân, phải cột niệm (giữ tâm tỉnh thức, mindful), phải thể dục bằng
cách đi bộ, phải làm những việc thích nghi, giữ điều độ khi làm những việc thích
nghi, phải hoạt động đúng thời, độc thân (hiểu là: không sắc dục, sống Phạm
hạnh), giữ giới, sống gần bạn lành (thiện hữu tri thức), cúng dường bậc tu hành,
kính lễ bậc trưởng thượng, bố thí bữa ăn.
Trong kinh Tạp A-hàm 1150, Đức Phật khuyên vua Ba-tư-nặc phải ăn
điều độ và phải giảm cân, khi thấy “Vua Ba-tư-nặc,
với thân thể mập lớn, mồ hôi ướt đẫm, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân
Phật, ngồi lui qua một bên, hơi thở hổn hển.”
Kinh Tạp A-hàm 1150, bản dịch của hai thầy Tuệ Sỹ và Thích Đức
Thắng, viết:
“Bấy giờ, Thế Tôn nói vua Ba-tư-nặc: “Đại vương thân thể mập quá!”
Đại vương bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Con đang lo về cái thân quá mập và
thường rất khổ sở, nhờm chán, hổ thẹn, vì cái thân mập béo này.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ: “Người nên tự cột niệm/ Khi ăn biết tiết độ/ Thì
các thọ sẽ giảm/ Yên ổn mà sống lâu.”(4)
Lời khuyên rất khoa học của Đức Phật đã dẫn tới kết quả là, kinh viết: “Như
vậy, từ đó trở đi, vua Ba-tư-nặc thân thể gầy thon lại, tướng mạo đoan chánh.”
Để tăng tuổi thọ, sau ăn kiêng là phải thể dục bằng cách thiền đi bộ để có sức
khỏe và ít bệnh. Thời của Đức Phật, làng này xa làng kia, rừng này xa rừng kia,
do vậy đi bộ là chuyện hàng ngày của đời thường. Và phải đi trong chánh niệm,
phải “walking meditation” (tức thiền đi bộ, hay kinh hành).
Kinh Tăng chi 5.29 ghi lời Đức Phật dạy như sau:
“Kham nhẫn được đường trường; kham nhẫn được tinh cần; ít bệnh tật; đưa đến
tiêu hóa tốt đẹp các đồ được ăn, được uống, được nhai, được nếm; định chứng được
trong khi kinh hành được tồn tại lâu dài. Những pháp này, này các Tỷ-kheo là năm
lợi ích của kinh hành."(5)
Đức Phật cũng dạy pháp tăng tuổi thọ qua hai kinh Tăng chi 5.125 và
Tăng chi 5.126:
“Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm? Làm việc
thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành
phải thời, và sống phạm hạnh. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ.”
(Bản dịch Bhikkhu Sujato: Doing what is suitable, knowing moderation in what
is suitable, eating food fit for consumption, activity at suitable times, and
celibacy. These are the five things that promote longevity).
“Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ. Thế nào là năm? Làm việc
thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, giữ giới
luật, và có bạn lành. Năm pháp này, này các Tỷ-kheo, gia tăng tuổi thọ.”
(Bản dịch Bhikkhu Sujato: Doing what is suitable, knowing moderation in what
is suitable, eating food fit for consumption, ethical conduct, and good friends.
These are the five things that promote longevity.)(6)
Trong pháp tăng tuổi thọ, Đức Phật dạy trong kinh Pháp cú rằng phải biết
tôn trọng, kính lễ bậc trưởng thượng:
Kệ 109. "Thường tôn trọng, kính lễ
Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn pháp được tăng trưởng:
Thọ, sắc, lạc, sức mạnh."(7)
Trong kinh Tăng chi 5.37, Đức Phật dạy rằng những người bố thí bữa
ăn sẽ được tăng tuổi thọ, tăng nhan sắc, tăng an lạc, tăng sức mạnh và tăng biện
tài:
“Người bố thí bữa ăn, này các Tỷ-kheo, người thí chủ đem lại cho người thọ
lãnh năm điều. Thế nào là năm?
Cho thọ mạng, cho dung sắc, cho an lạc, cho sức mạnh, cho biện tài. Cho thọ
mạng, vị ấy được chia thọ mạng chư Thiên hay loài Người. Cho dung sắc, vị ấy
được chia dung sắc chư Thiên hay loài Người. Cho an lạc, vị ấy được chia an lạc
chư Thiên hay loài Người. Cho sức mạnh, vị ấy được chia sức mạnh chư Thiên hay
loài Người. Cho biện tài, vị ấy được chia biện tài chư Thiên hay loài Người.
Người bố thí bữa ăn, này các Tỷ-kheo, người thí chủ đem lại cho người thọ lãnh
năm điều này.”(8)
Tỉnh thức nhìn cái chết
Chắc chắn rằng chúng ta sẽ chết vào một lúc nào đó. May mắn lắm, nhiều phước
duyên lắm, chúng ta sẽ chết bình an khi tuổi thọ đã mãn. Tuy nhiên, nhiều phần
chúng ta không thể biết chắc rằng khi nào cái chết sẽ tới, đặc biệt là khi xảy
ra rủi ro hoạnh tử. Do vậy, chúng ta phải chuẩn bị đón nhận cái chết cho đúng
pháp. Y hệt như khi lên đường đi xa, phải bình tỉnh, không mê đắm bất kỳ những
gì trong đời này và không mơ tưởng bất kỳ những gì mai sau. Thái độ tỉnh thức,
không mê đắm, không vui thích dù là với sự sống hay sự chết, được thể hiện ở nơi
bài kệ của ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất, học trò hàng đầu, được Đức Phật khen
ngợi là đệ nhất trí tuệ trong giáo đoàn).
Bản Việt dịch của Thầy Indacanda:
“Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, tôi sẽ lìa bỏ thân
xác này, có sự nhận biết rõ, có niệm.
Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi chờ đợi thời
điểm, giống như người làm thuê chờ đợi tiền công.”(9)
Tuy nhiên, nếu xảy ra cái chết hoạnh tử, công trình tu học của chúng ta sẽ về
đâu? Đức Phật trả lời ngài Mahānāma rằng không có gì phải lo, bởi vì những người
tu tập lâu ngày với tín, giới, sở văn, thí xả, trí tuệ (faith, ethics, learning,
generosity, and wisdom) thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng. Kinh
Tương ưng 55.21 ghi lời Đức Phật rằng dù chết cách gì đi nữa,
người tu sẽ vẫn không bị đọa, cũng như ghè dầu, sữa hay bơ bị bể trên hồ nước
sâu, thì ghè sẽ bể vụn, tan nát, chìm xuống nhưng dầu, sữa và bơ sẽ nổi lên:
“Ngồi một bên, họ Thích Mahānāma bạch Thế Tôn:
- Kapilavatthu này, bạch Thế Tôn, là phồn vinh, phú cường, dân cư đông đúc, quần
chúng khắp nơi chen chúc, chật hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi con hầu hạ Thế Tôn hay
các Tỷ-kheo đáng kính, vào buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu, con gặp con voi
cuồng chạy; con gặp con ngựa cuồng chạy; con gặp người cuồng chạy; con gặp cỗ xe
lớn cuồng chạy; con gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy. Trong khi ấy, bạch Thế Tôn, tâm
con nghĩ đến Phật bị hoang mang, tâm con nghĩ đến Pháp bị hoang mang, tâm con
nghĩ đến chúng Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Nếu
lúc ấy con mệnh chung, thời sanh thú của con là gì, sanh xứ đời sau chỗ nào?”
—Chớ có sợ, này Mahānāma! Chớ có sợ, này Mahānāma! Không ác sẽ là cái chết của
Ông! Không ác là cái chết của ông! Này Mahānāma, với ai đã lâu ngày tâm tu tập
trọn vẹn về tín, tâm tu tập trọn vẹn về giới, tâm tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm
tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người ấy, dầu
thân có sắc này, do bốn đại hợp thành, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng,
có bị vô thường phá hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt; dầu cho thân này ở
đây bị quạ ăn, chim kên ăn, chim ưng ăn, chó ăn, hay giả-can ăn, hay các loại
chúng sanh sai khác ăn; nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập trọn vẹn về
tín, tu tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn, tu tập trọn vẹn về thí
xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ, thời tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù
thắng.
Ví như, này Mahānāma, một người nhận chìm một ghè sữa bơ, hay một ghè dầu vào
trong một hồ nước sâu và đập bể ghè ấy. Ở đây, các mảnh ghè hay mảnh vụn chìm
xuống nước; nhưng sữa, bơ hay dầu thời nổi lên, trồi lên trên.”(10)
Một kinh khác trong kinh Tương ưng 55.22 ghi lời Đức Phật rằng dù chết
cách gì đi nữa, người tu sẽ vẫn không bị đọa, cũng y hệt như một cây thiên về
phía Ðông, hướng về phía Ðông, xuôi về phía Ðông, nếu bị chặt đứt từ gốc rễ, nó
sẽ ngả về phía Đông, khi người tu có lòng tin bất động vào Phật, Pháp, Tăng và
sống giữ giới hướng về thiền định. (Bản dịch Sujato: It’s when a noble
disciple has experiential confidence in the Buddha… the teaching… the Saṅgha…
And they have the ethical conduct loved by the noble ones… leading to immersion.)(10)
Trong khi đó, kinh Tăng chi 6.19 ghi lời Đức Phật dạy rằng phải
tỉnh thức và tinh tấn, nhìn thấy cái chết chỉ cách mình có một hơi thở, và phải
tu học với tâm tinh tấn, như thế mới có thể giải thoát. Tương tự, kinh Tăng
chi 6.20 ghi lời Đức Phật sách tấn:
“Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đêm vừa tàn và ngày vừa an trú, suy tư
như sau: “Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta rất nhiều: “Con rắn có thể cắn
ta, con bò cạp có thể cắn ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh
chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta
ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, hay đàm có thể
khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy có thể làm ta
mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần
phải suy xét như sau: “Nếu ta còn có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận,
nếu ta lỡ mệnh chung trong ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta”.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như sau: “Ta
có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung ngày hôm
nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta”, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để
đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn,
tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Ví như, này các
Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải
tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển,
chánh niệm và tỉnh giác.”(11)
Trong Tăng nhất A-hàm 3.10, Đức Phật dạy niệm sự chết rằng, hãy ngồi, chỉ
niệm sự chết, không nghĩ gì khác, hình dung sinh mạng trôi đi không dừng, nhìn
các căn tan rã...:
“Thế Tôn bảo rằng: Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân,
buộc niệm ở trước, không có tư tưởng nào khác, chuyên tinh niệm sự chết.
Chết là mất ở đây, sinh bên kia; qua lại các đường, sinh mạng trôi đi không
dừng, các căn tan hoại, như khúc gỗ mục nát; mạng căn đoạn tuyệt, giòng
họ chia lìa, không hình không tiếng, cũng không tướng mạo. Như vậy, này
các Tỳ-kheo, đó gọi là niệm sự chết, liền được thành tựu đầy đủ quả
báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, liền
được thần thông, trừ các loạn tưởng được quả Sa-môn, tự đến
Niết-bàn. Cho nên, này các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm sự
chết, liền sẽ được những thứ công đức thiện này. Như vậy, này các
Tỳ-kheo, hãy học điều này.”(12)
Trong trận đại dịch Covid-19 hiện nay của thế giới, khắp bốn phương trời đều
hiển lộ hung hiểm. Trong kinh Phât có một hình ảnh tương tự là trận lũ lụt dâng
nước khắp bốn phía, và chỉ có một hòn đảo Niết-bàn duy nhất là an ổn. Trong nhóm
kinh nhật tụng sơ thời, tức là nhóm kinh được chư Tăng tụng hàng ngày trong
những năm đầu Đức Phật hoằng pháp, có kinh Tương ưng 5.10, trích lời Đức
Phật dạy rằng “không sở hữu gì, không nắm giữ gì” sẽ thoát được trận lũ lụt già
chết. Bản dịch Nguyên Giác:
“1093. [Đức Phật] Với những người đứng giữa dòng nước, trong khi lũ lụt kinh
hoàng dâng cao thêm - với những người bị già chết tràn ngập, hỡi Kappa, ta sẽ
nói về một hòn đảo.
1094. “Không sở hữu gì hết, không dính mắc gì hết” - đó là hòn đảo của
pháp tối thượng, ta gọi đó là Niết Bàn, nơi đoạn diệt của già chết.
1095. Hiểu được Pháp này, những người chánh niệm sẽ được giải thoát ngay trong
đời này. Họ sẽ không bị ma kiểm soát, cũng không làm tôi tớ cho ma.”(13)
Chìa khóa ngắn gọn “Không sở hữu gì hết, không dính mắc gì hết” qua bản Anh dịch
của ngài Thanissaro là: “For one stranded in the middle of the lake, in the
flood of great danger - birth -overwhelmed with aging & death, I will tell you
the island, Kappa. Having nothing, clinging to no thing: That is the
island, there is no other.”(13)
Hòn đảo “Không sở hữu gì, không một pháp nào để dính mắc” trong bài kinh
trên cũng là một lời dạy của Kinh Kim Cang: ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm
(Khi không còn chỗ nào để dính mắc, thì kỳ tâm, tức là tâm vô sanh hay Niết-bàn
Diệu tâm, mới hiển lộ ra).
Trong kinh Kim cang cũng có bài kệ dạy pháp quán: “Nhất thiết hữu vi
pháp/ như mộng, huyễn, bào, ảnh/ như lộ diệc như điện/ Ưng tác như thị quán.”
Có thể dịch là: “Tất cả các pháp hữu vi, đều như giấc mơ, như huyễn ảo, như
bọt sóng [trên sông], như ảnh [hiện trong gương], như hạt sương, như chớp loé
trên không. Hãy quán như thế.”
Trong Thiền tông Việt Nam, lời dạy quán sự chết như thế nào? Có sinh, tất có tử.
Có thể chuyển câu hỏi này là: Nên quán các pháp sinh diệt như thế nào? Bất kỳ
pháp hữu vi nào cũng đều phải theo luật sinh diệt, và có sinh tất có diệt.
Thiền sư Viên Chiếu (999 - 1090) thời nhà Lý, trụ trì chùa Cát Tường, ở kinh đô
Thăng Long, đã để lại một bài kệ trước khi viên tịch. Bải kệ 4 câu, trong đó 2
câu cuối là:
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
(Dịch: Nếu đạt được tâm không, nơi đó chính là tâm vô tướng
[signless] và chính là tâm vốn thật không hề có sắc [form] nào để hiển lộ, thì
[bất kể] sắc và không có ẩn hay hiện, hãy cứ để mặc cho xoay vần.)
Lời dạy đó cũng có thể ghi qua cách khác: Thấy được chỗ hoàn toàn không có một
pháp nào để tu hết. Có thể giải thích đơn giản thế này: Đó là sự tỉnh thức
thường trực, khi tâm hướng về mắt, thì tất cả những gì được thấy đều tức khắc
tan biến [như bọt sóng tan vào nước, như ảnh hiện tan vào tánh sáng rỗng lặng
của gương]; khi tâm hướng về tai, thì tất cả những gì được nghe đều biến mất
[như giọt sương tan dưới nắng mặt trời, như tia chớp tan biến vào hư không]; và
khi tâm hướng về bất kỳ đối tượng nào của tâm thì tất cả các pháp đều tan biến
như giấc mộng đêm qua. Thấy tâm như thế, sẽ không thấy có pháp nào để vin vào
nữa, thì còn lấy gì để tu. Vì tâm không đó, chính là hòn đảo của pháp tối
thượng. Đó chính là Thiền tông Việt Nam.
GHI CHÚ:
(1) Kinh Milinda vấn đạo:
https://suttacentral.net/mil6.3.6/vi/indacanda
(2) Abhidhamma in Daily Life:
https://www.wisdomlib.org/buddhism/book/abhidhamma-in-daily-life-ashin/d/doc3173.html
(3) Khảo biện về kinh Dược Sư:
https://thuvienhoasen.org/a27195/khao-bien-ve-kinh-duoc-su
(4) Kinh SA 1150:
https://suttacentral.net/sa1150/vi/tue_sy-thang
(5) Kinh AN 5.29:
https://suttacentral.net/an5.29/vi/minh_chau
(6) Kinh AN 5.125:
https://suttacentral.net/an5.125/vi/minh_chau
Kinh AN 5.126:
https://suttacentral.net/an5.126/en/sujato
(7) Kinh Pháp cú, kệ 109:
https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10
(8) Kinh AN 5.37:
https://suttacentral.net/an5.37/vi/minh_chau
(9) Trưởng kão Tăng kệ, Xá Lợi Phất:
https://suttacentral.net/thag17.2/vi/indacanda
(10) Kinh SN 55.21:
https://suttacentral.net/sn55.21/vi/minh_chau
Kinh SN 55.22:
https://suttacentral.net/sn55.22/vi/minh_chau
(11) Kinh AN 6.20:
https://suttacentral.net/an6.20/vi/minh_chau
(12) Kinh EA 3.10:
https://suttacentral.net/ea3.10/vi/tue_sy-thang
(13) Kinh Sn 5.10:
https://thuvienhoasen.org/p15a30621/sn-5-10-kappa-manava-puccha-cac-cau-hoi-cua-kappa
Bản dịch Thanissaro:
https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.5.10.than.html
.