Vì sao lễ Vu lan trở thành lễ hội trong cộng đồng người Việt?
Vì sao lễ Vu lan trở thành lễ hộ
Vì sao lễ
Vu lan trở thành lễ hội trong cộng đồng người Việt?
Thích Hạnh Chơn
Lễ hội là hoạt động văn
hóa
mang tính cộng đồng. Có hàng nghìn lễ hội mỗi năm được tổ chức ở
Việt Nam với quy mô lớn nhỏ khác nhau.
Phần lớn các lễ hội chỉ mang tính địa phương, có nội dung giáo dục và sức ảnh
hưởng nhỏ. Lý do là các lễ hội mang tính tín ngưỡng địa phương thuộc phạm vi
cộng đồng người theo tín ngưỡng đó. Một số lễ hội tôn giáo có sức ảnh hưởng lớn
hơn nhưng cũng chỉ trong phạm vi thuộc tín đồ của tôn giáo đó chứ không lan rộng
ra
toàn xã hội. Tuy nhiên, ở
Việt Nam có hai lễ hội tôn giáo có sự ảnh hưởng rộng
ra
toàn xã hội là lễ
Giáng
sinh của Thiên Chúa
giáo và lễ
Vu lan của Phật giáo. Trong bài viết này, người viết nêu
ra
một số đặc điểm của lễ hội
Vu lan đã
làm cho lễ hội
này
có sức lan tỏa
và trở thành lễ hội
trong cộng đồng người Việt.
Lễ hội Vu lan
Lễ hội Vu lan từ lâu đã trở
thành lễ hội văn hóa
Phật giáo và của dân tộc Việt Nam. Theo nghiên cứu của tác giả Chúc Phú, lễ hội
Vu lan đã tồn tại khoảng 1.500
năm tại Trung Quốc.
Do đó, lễ hội Vu lan được tổ chức tại Việt Nam sớm nhất cũng vào thời gian trên
bởi lễ hội này có nguồn gốc từ Trung Quốc và chưa có tư liệu nào chứng tỏ nó ra
đời độc lập tại Việt Nam. Lễ hội Vu lan được nhiều người ngày nay biết đến thông
qua hai
bản kinh Vu lan và
Báo hiếu công ơn cha mẹ.
Nội dung hai
bản kinh nói về đạo hiếu và
đưa ra phương pháp báo hiếu theo Phật giáo Bắc tông. Bản kinh Vu lan nêu
câu chuyện mẹ của Tôn giả Mục-kiền-liên là bà Thanh Đề tạo tội ác nên đọa
làm
ngạ quỷ đói khát. Tôn giả
Mục-kiền-liên được miêu tả có lòng hiếu thảo rất lớn nên khi chứng Thánh quả
liền vận thần thông tìm mẹ để biết mẹ đã tái sinh nơi đâu. Khi biết mẹ bị
đọa
làm
ngạ quỷ,
Tôn
giả tìm cách cứu mẹ và được Đức
Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ là cúng dường chư Tăng gồm các loại thức ăn và
nhu yếu phẩm như thuốc men, giường nằm…
vào dịp rằm tháng
Bảy
khi chư Tăng tiến hành lễ
Tự tứ kết thúc mùa
An cư theo truyền thống Bắc tông. Nhờ công đức tu tập và sức chú nguyện của chư
Tăng, mẹ Tôn
giả cùng các chúng sinh
khác đã thoát khỏi cảnh ngạ quỷ đói. Pháp cứu tế được dạy trong bản kinh không
chỉ cứu độ cha mẹ, người thân đã qua đời được sinh
về cảnh an lành mà còn giúp cho cha mẹ, thân bằng quyến thuộc còn sống được
trường thọ, khoẻ mạnh. Từ lễ hội trong Phật giáo, lễ Vu lan đã lan tỏa
rộng ra trong xã hội và trở thành lễ hội quần chúng.
Lễ hội Vu
lan trở thành lễ hội của người Việt
Có thể nói rằng đạo hiếu là đạo đức của người phương Đông.
Ở Việt Nam, đạo hiếu chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo bởi hai nguồn
tư tưởng này chi phối đời sống tinh thần người Việt trong
nhiều thế kỷ. Từ đó, hiếu trở thành nền tảng quan trọng để đánh giá con người có
đạo đức ở phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng.
Nho giáo nhấn mạnh hiếu là giữ hình hài thân thể do cha mẹ sinh
ra mà không được thay đổi như cạo bỏ râu tóc, làm thẩm mỹ chỉnh sửa thân thể…;
là lo lập thân có danh với thiên hạ cho đời kính nễ; là phụng dưỡng cha mẹ với
thái độ vui vẻ; là lo tang lễ hết mực thương xót; là cúng tế phải trang nghiêm
(“Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm
hủy thương, hiếu chi thủy dã; lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế… Hiếu tử
chi sự thân dã, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ nhạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang
tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm”).
Trong các điều hiếu của Nho giáo, chỉ có phần phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống là
phù hợp và được ứng dụng trong cộng đồng người phương Đông. Về phần hiếu khi cha
mẹ qua đời, Nho giáo nhấn mạnh đến sự đau thương khóc lóc, cúng tế mà không đề
cập đến sự siêu thoát, ngoại trừ mặc định là “linh hồn” người chết sẽ đến nơi cư
trú của tổ tiên là huỳnh tuyền hay suối vàng.
Phật giáo thì đề cập hiếu cả về vật chất lẫn tinh thần, khi còn
sống cũng như khi qua đời. Khi còn sống thì người con phụng dưỡng, hướng cha mẹ
biết đạo để làm các điều thiện. Khi cha mẹ qua đời thì người con làm phước bằng
cách bố thí, cúng dường để hồi hướng phước báu cầu siêu cho cha mẹ. Quan niệm
hiếu thảo với ông bà tổ tiên qua hình thức cúng tế để được gia hộ cộng với tấm
lòng mong muốn tổ tiên ông bà cha mẹ qua đời được siêu thoát nên người tín đồ
Phật giáo thực hiện nghi lễ cúng tế và cúng dường theo Phật giáo. Có lẽ chính
pháp cứu tế theo kinh Vu lan phù hợp với tâm tư nguyện vọng của quần
chúng người Việt và cũng dễ thực hiện theo phương cách cúng dường nên lễ hội Vu
lan của Phật giáo trở thành lễ hội của người Việt. Hơn nữa, ai cũng có ông bà tổ
tiên, ai cũng có nhu cầu thể hiện lòng hiếu qua hình thức cúng tế cầu nguyện,
nhất là cho những người thân, cho nên lễ Vu lan được tiếp
nhận một cách tự nhiên và trở thành lễ hội tâm linh của đa số người Việt.
Xây dựng đời
sống tôn giáo trong cộng đồng Phật tử Việt
Xây dựng đời sống tôn giáo
trong cộng đồng tín đồ Phật giáo người Việt là nét đẹp văn
hóa
cộng đồng. Đối với các tôn
giáo nhất thần, do tính phục tùng nên tín đồ thể hiện đời sống tôn giáo rất rõ
rệt như đi lễ hàng tuần. Đối với Phật giáo
Nguyên
thủy,
hình thức cúng dường cho chư Tăng khất thực mỗi buổi sáng là nét đẹp văn
hóa
Phật giáo. Đối với Phật giáo Bắc
truyền, đời sống tôn giáo của người tín đồ
do
chưa được chú trọng nên
chưa tạo được nét đẹp văn hóa
công đồng Phật tử. Một năm vào dịp Tết và rằm tháng
Bảy,
tín đồ đi lễ chùa đông và tạo nên văn
hóa
đi chùa nhưng chỉ 2 lần thì quá ít. Các dịp rằm, mồng một hàng tháng,
tín đồ Phật giáo không sinh hoạt đồng bộ nên chưa tạo
được
nét đẹp văn
hóa
cộng đồng Phật giáo.
Có nhiều nguyên nhân làm
cho phần lớn tín đồ Phật giáo
Bắc truyền chưa có
đời sống tôn giáo thường xuyên. Những nguyên nhân có thể là do tư tưởng “Phật
tại tâm” nên ở đâu tu cũng được, do hiểu sai câu “tu đâu cho bằng tu nhà, thờ
cha kính mẹ mới là chân tu”, do có thành kiến hay không tin hàng Tăng bảo nên
không đến chùa sinh hoạt, do tín đồ chưa nhận thức giá trị đời sống tâm linh khi
sinh hoạt cộng đồng tại chùa, do tín đồ chỉ có nhu cầu giới hạn
ở nơi
tín ngưỡng lễ bái mà không quan tâm đến giáo pháp của
Đức
Phật,
và do Phật giáo Bắc truyền dựa trên sự tự giác cá nhân nên sinh hoạt cộng đồng
khó thành hiện thực.
Lễ hội Vu lan trở thành lễ
hội của cộng đồng bởi nó đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng. Một năm nhắc
lại một lần về đạo hiếu, về tình cảm giữa kẻ còn người mất nên tín đồ tự nhắc
phải thực hiện lễ bái cúng tế. Trong khi đó, mỗi tháng hai ngày sám hối bản thân
để làm mới thì tín đồ Phật giáo chưa quan tâm. Nhìn tổng quát, Phật tử tham gia
tu học tại các đạo tràng không nhiều và thường họ tham gia nhiều chùa. Như vậy,
giả sử những người tham gia các
khóa
tu biết Phật pháp thì số lượng ấy khá khiêm tốn. Đại đa số Phật tử quy y ít đi
chùa và ít tìm hiểu giáo pháp để tu tập ngoại trừ khi có nhu cầu tín ngưỡng. Có
thể nói, tín ngưỡng Phật giáo đáp ứng nhu cầu tình cảm tôn giáo nhưng mặt tu tập
tâm linh,
tức học và hành giáo pháp của
Đức Phật,
thì chưa được chú trọng trong cộng đồng tín đồ Phật giáo nói chung.
Lễ Vu lan trở thành lễ hội
trong cộng đồng người Việt nhưng chỉ mới tác động đến lĩnh vực là hiếu,
và thường là sự biểu hiện qua hình thức cúng tế cầu siêu người quá cố. Khoảng
trống trong lễ hội đang được bổ sung bằng các hoạt động thiết thực như lễ bông
hồng cài áo, lễ tri ân…
Một số ít Phật tử
nghe pháp có thể hiểu ý nghĩa Vu lan nhưng phần lớn tín đồ vẫn chưa hiểu rõ lễ
này
nên họ còn có tâm lý sợ “tháng
Bảy
là tháng cô hồn”, còn đốt vàng mã
quá nhiều, và
còn
những quan niệm chưa đúng đắn…
Có lẽ Phật giáo Bắc truyền
cần tham khảo
Phật giáo Nam truyền trong
việc duy trì và phát
triển tín đồ Phật giáo. Bởi lẽ, dù Phật giáo
Nam
truyền ở phương diện nào đó
còn có những hạn chế
trong việc
thích nghi xã hội nhưng họ
vẫn duy trì được số lượng tín đồ khá cao. Tôn giáo nào muốn tồn tại phải có đức
tin và sự sinh hoạt tôn giáo. Đối với Phật giáo, tín đồ
cần
có đức tin
Tam
bảo, tin nhân quả và tất yếu phải hiểu và thực hành điều mình tin.
Tuy nhiên, nếu
như tin Tam
bảo mà không hiểu Tam
bảo là gì, tin nhân quả mà phớt lờ thực hành theo giáo lý nhân quả, quy y Pháp
mà không hiểu rõ Tam
quy Ngũ
giới thì sự thực hành tôn giáo chỉ là sự an ủi xoa dịu cảm xúc qua hình thức tín
ngưỡng.
Lễ Vu lan đã trở thành lễ
hội của đa số tín đồ Phật giáo. Làm sao để các lễ khác như
đại
lễ Phật đản, các ngày sám hối hàng tháng trở thành dịp sinh hoạt cộng đồng và tu
tập của tín đồ Phật giáo?! Có
lẽ chúng ta
cần có
một cuộc chấn hưng Phật
giáo mới!
Cuộc chấn hưng ấy nhắm vào hiệu quả quản lý hành chánh Giáo hội, quản lý sinh
hoạt các tự viện, và xúc tiến
công tác chăm sóc
tín đồ… Người Phật tử quy y cần đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản như hiểu
Tam
quy, Ngũ
giới, và các pháp tu tập căn bản. Họ phải đi lễ chùa định kỳ hàng tháng. Ban cư
sĩ mỗi chùa sẽ là nhân sự trợ giúp gắn kết cộng đồng tín đồ Phật tử trong các
hoạt động lễ nghi, hiếu hỷ, lễ tang, tương thân tương trợ… Công cuộc ấy sẽ mất
thời gian nhưng nếu muốn đạt được nét đẹp văn
hóa trong
sinh hoạt cộng đồng tín đồ Phật giáo thì không thể không thực hiện.