Nghĩ về bài thơ “Mẹ và quả”của Nguyễn Khoa Điềm
nghi ve bai tho
NGHĨ VỀ BÀI THƠ “MẸ VÀ QUẢ” CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn tin vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
.
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.
Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
Mẹ và quả
là một bài thơ giản dị và mộc mạc, cũng không quá dễ khơi gợi cảm xúc như những
bài thơ khác viết về mẹ. Nhưng đây là một bài thơ giàu hình tượng và hấp dẫn
người đọc bởi vẻ đẹp trí tuệ cùng những suy tư sâu lắng.
Kết cấu của bài thơ khá rõ ràng với ba khổ thơ tách bạch. Khổ thơ đầu tập trung
miêu tả hình tượng “quả”. Khổ thứ hai có thêm sự xuất hiện của những người con:
“lũ chúng tôi” trong quan hệ so sánh với hình tượng quả. Khổ thứ ba chỉ
tập trung thể hiện hình ảnh người con: “chúng tôi”. Trong hai hình tượng quả
và chúng tôi luôn có sự hiện thân, gắn bó của hình ảnh người mẹ.
Người mẹ chính là nhân vật trung tâm của bài thơ, nhưng được thể hiện một cách
gián tiếp.
Thiền sư Nhất Hạnh từng nói, bài thơ bài ca nào viết về mẹ cũng dễ hay, bởi mẹ
tượng trưng cho tình thương. Bản thân
Thiền
sư trong tác phẩm Bông hồng cài áo đã trích dẫn
những vần thơ cảm động về mẹ:
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côi
Quanh tôi ai cũng khóc
Yên lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Là mất cả bầu trời.
(Trích thơ Xuân Tâm)
Bài thơ này tác động trực tiếp vào cảm xúc của người đọc bằng nỗi buồn mất mẹ
nên làm cho ai đọc rồi cũng phải mủi lòng. Những ai mất mẹ thì thương tiếc,
những ai còn mẹ thì biết trân quý bởi mẹ là cả một bầu trời nhờ đó mà ta được
sống và lớn lên. Hoặc như bài thơ Mẹ của Đỗ Trung Quân thì lôi cuốn người
đọc bằng ý thức sâu sắc về vô thường:
Con sẽ không đợi một ngày kia
có người cài cho con lên áo một nụ bạch hồng
Mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ
Mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng
Hoa đẹp đấy
-
cớ sao lòng hoảng sợ?
Trở lại với bài thơ Mẹ và quả, ta thấy hình ảnh người mẹ hiện ra như một
điển hình của tầng lớp nông dân chân chất, chịu thương chịu khó, chăm chỉ, cần
mẫn, tảo tần:
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn tin vào tay mẹ vun trồng
Hình ảnh mùa quả gắn liền với đời sống làng quê Việt Nam, gắn liền với
những người nông dân hiền lành, hai sương một nắng. Có ba đối tượng cần chú ý
trong khổ thơ đầu: mẹ, quả, và chữ tin. Chữ tin
này rất quan trọng và là điểm mấu chốt giúp ta hiểu được tư tưởng của tác
giả trong toàn bài thơ, nhưng chúng ta sẽ bàn đến nó rõ hơn ở khổ cuối. Mẹ
ở đây là mẹ của làng quê, có thể khẳng định như vậy, bởi vì những mùa quả
nghĩa là thành quả lao động của mẹ không phải chỉ trong một ngày, một tháng
mà là quanh năm. Nhờ đó mà mẹ nuôi các con. Và mẹ đã vun trồng với tất cả tấm
lòng của mẹ. Những mùa quả hiện diện từ sức lao động của mẹ, từ niềm tin
của mẹ. Chính niềm tin này làm mẹ trở nên mạnh mẽ và lạc quan. Mẹ tin mẹ vun
trồng bằng sức lực và bằng tình thương thì chắc chắn mẹ sẽ có thu hoạch. Kinh
Hoa
nghiêm
nói: “Niềm tin là mẹ đẻ của tất cả các công đức”. Cho nên chữ tin
này làm cho hình ảnh người mẹ nông dân trở nên bừng sáng.
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng.
So sánh những mùa quả với mặt trời, mặt trăng là một so sánh rất đắt, rất đẹp,
rất thi vị và rất trữ tình. Mặt trời tượng trưng cho một ngày, mặt trăng tượng
trưng cho một tháng. Những mùa quả như mặt trời, như mặt trăng nghĩa là
như tháng ngày của cuộc đời mẹ, những mùa quả ấy chính là ngày tháng của đời mẹ.
Mẹ chắt chiu chăm bón mới có những mùa quả no tròn, viên mãn như mặt trời, mặt
trăng. Cho nên mặt trời, mặt trăng ở đây không chỉ là một hình ảnh so sánh đơn
thuần mà còn mang tính chất ẩn dụ. Ngày qua đi, tháng qua đi, những mùa quả có
vẻ giản dị là thế nhưng qua cái nhìn giàu liên tưởng của nhà thơ, thì trở nên
lấp lánh, lung linh. Thành quả của mẹ bừng sáng và mẹ cũng bừng sáng bởi vẻ đẹp
yêu lao động. Khổ thơ như chỉ miêu tả thiên nhiên nhưng thực ra là phác họa hình
ảnh người mẹ lao động không mỏi mệt. Ở trong đạo Phật gọi là tinh tấn. Bài học
mà người con Phật chúng ta có thể rút ra được từ khổ thơ đầu tiên, đó là muốn có
thành quả thì phải có sự siêng năng, tinh tấn và trước hết phải có niềm tin. Đó
là tín căn và tấn căn trong ngũ căn, cũng là tín lực và tấn lực trong ngũ lực.
Trong mối quan hệ nhân quả, nhờ có niềm tin nên mới tinh tấn, nhờ tinh tấn nên
mới có thành công. Cho nên các câu thơ trong khổ thơ đầu được sắp xếp theo một
trình tự rất logic, hợp với nhân quả.
Nhưng không phải chỉ có niềm tin và siêng năng mà đủ, để có thành quả, cần phải
có công lao khó nhọc, hay nói cách khác là sự hy
sinh của mẹ nữa:
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.
Đến đây thì xuất hiện hình ảnh người con trong sự so sánh với hình ảnh mùa quả.
Đều là từ tay mẹ, đều lớn cả, nhưng con thì lớn lên mà quả thì lớn xuống. Quả
nói lên được nỗi khó nhọc và công lao của mẹ, vì quả có hình dạng giọt mồ
hôi, quả chính là một phần hình hài của mẹ. Ở khổ thơ đầu, quả
tượng trưng cho thời gian đời mẹ, còn ở đây, quả chính là kết tinh từ sức
lực mẹ bỏ ra. Mẹ đã đặt hết niềm tin, đặt hết thời gian, đặt hết sức lực, đặt
hết cả cuộc đời cho những mùa quả. Và mẹ đã nhận lại được thành quả rồi. Đó là
bởi vì bí và bầu thì lớn xuống. Từ tay mẹ, bí và bầu lại trở về lòng mẹ. Chúng
không biết nói, nhưng cũng cảm giác được lòng mẹ thì yên ổn, an toàn và bao
dung. Tình thương thầm lặng chính là tình thương không giới hạn. Bí và bầu là
thành quả hữu hình của mẹ, tuy là vô tri nhưng dường như cũng biết đáp đền.
Những mùa quả hữu hình ấy, tuy nhiên, chỉ là phương tiện để mẹ chăm bón cho một
thứ quả quan trọng hơn. Mẹ trồng quả là để nuôi các con. Nhưng còn các con thì
sao, những con người từ tay mẹ lớn lên thì đi về đâu, có làm được như các loại
quả vô tri kia chăng? Đó chính là vấn đề mà khổ thơ thứ hai đã đặt ra và được
giải quyết trong khổ thơ cuối:
Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
Cũng như khi mẹ chăm những mùa quả, khi chăm các con mẹ đã đặt hết niềm tin vào
đấy. Khổ thơ cuối là tâm tư của người con. Thấu hiểu được lòng mẹ, cảm nhận được
tâm tư của mẹ, từ đó người con có một sự hoảng sợ. Đó là một sự hoảng sợ rất
nhân văn: sợ không đền đáp được công ơn của mẹ.
Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
Nhắc lại ở khổ thơ đầu, mẹ tin vào tay mẹ vun trồng thì mẹ sẽ hái được những mùa
quả. Nhưng người con lại là một thứ quả đặc biệt. Con cũng là một phần hình hài
của mẹ, là sự tiếp nối của mẹ. Mẹ đặt vào đó niềm tin và hy
vọng. Nhưng bởi vì người con ý thức được sự vô thường:
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái.
So với mặt trời, mặt trăng, so với thời gian vô cùng thì tháng năm đời người chỉ
là hữu hạn. Sự hoảng sợ của người con là một tâm lý
thường tình của người có lương tri. Sợ không được như những mùa quả kia mà lại
chỉ là một thứ quả non xanh, chưa kịp trưởng thành thì lại phụ niềm tin
của mẹ. Ta bắt gặp lại hình ảnh người con trong bài thơ Mẹ của Đỗ Trung
Quân:
Con không đợi một ngày kia khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua.
Cái hoảng sợ ấy, cái hốt hoảng ấy là sự thức tỉnh cần thiết của người con trước
vô thường, để từ đó anh ta biết trân quý mẹ hơn, và biết sống đúng với đạo làm
con. Dẫu rằng công ơn của cha mẹ là không bao giờ đền đáp được. “Có hai hạng
người, này các Tỳ-kheo,
ta nói không thể trả ơn được, đó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên
vai cõng mẹ, làm như vậy suốt đời, vừa đấm bóp hầu hạ, và dù tại đó, cha mẹ có
khạc nhổ tiểu tiện, cũng chưa đủ đền ơn mẹ cha.”
(Kinh Tăng
chi).
Cho nên sự hoảng sợ của người con là điều dễ hiểu.
Đức Phật dạy có một cách người con có thể đền đáp được công ơn cha mẹ, đó là
khuyên cha mẹ chánh tín Tam
bảo,
tu tập thiện nghiệp. Trong kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân,
Đức
Phật dạy người con còn phải vì cha mẹ mà làm mọi việc lành, như vậy mới là đền
đáp được công ơn cha mẹ.
Đọc bài thơ Mẹ và quả là một cơ hội để chúng ta, nhất là những người con
Phật, quán chiếu về ơn nặng của các đấng sinh thành, và ý thức được trách nhiệm
của mình phải làm một người tốt đẹp, thiện lành để đền đáp công ơn ấy. Người thế
gian thì phụng dưỡng cha mẹ, làm một người thành công, có đạo đức để cha mẹ vui
lòng. Là người xuất gia thì không có con đường nào khác hơn là phải nỗ lực thành
tựu được đạo quả, như thế là sự báo hiếu rốt ráo nhất. Chúng ta sẽ không phải sợ
vô thường, sẽ không phải sợ phụ niềm tin và tình thương của mẹ.
Thích nữ Tuệ Anh