Sự Phát Triển & Đặc Điểm của Phật Giáo Nam Kỳ, Giai Đoạn 1920 - 1945

Sự Phát Triển & Đặc Điểm của Phậ

Sự Phát Triển & Đặc Điểm của Phật Giáo Nam Kỳ, Giai Đoạn 1920 - 1945

Thích Đồng Hạnh

 

I. Bối cảnh lịch sử Nam kỳ giai đoạn 1920 - 1945

   Sau Đệ I thế chiến, các nước thắng trận đã chia lại trật tự thế giới theo hệ thống mới, hệ thống Vecxai-Wasington. Theo hệ thống này, các nước tư bản như Anh, Pháp, Mỹ và Nhật Bản chiếm quyền lợi kinh tế, và họ ra sức áp đặt áp bức lên những nước bại trận và những nước thuộc địa [3, tr.15].

   Là một phần của bán đảo Đông Dương, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp và không thoát khỏi sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp trong giai đoạn này. Vào đầu thế kỷ XX, đời sống nhân dân Việt Nam vô cùng biến động và khổ cực, do sự bóc lột hà khắc của Pháp.

   Về giáo dục: Trong giai đoạn này Việt Nam tiếp thu văn hóa giáo dục từ nhiều quốc gia, như Ấn Độ, Nhật Bản và Pháp. Tuy nhiên, vì là một phần của bán đảo Đông Dương, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu nặng từ văn hóa giáo dục của người Pháp [7, tr.15]. Theo đó, nền giáo dục khoa bảng được xây dựng từ Nho học đã bị loại bỏ, thay vào đó là một nền giáo dục có tính phổ thông từ tiểu học tới trung học và cao đẳng [10]. Bằng cách giáo dục này, Pháp muốn đào tạo người bản xứ có khả năng làm trung gian cho Pháp tại Việt Nam, như thông dịch viên hay kỹ sư xây dựng. Cũng trong thời kỳ, Pháp mở rộng giáo dục nghề cho người Việt, mục đích là để đào tạo nguồn nhân lực cho việc khai thác thuộc địa hiệu quả hơn [4].

   Về kinh tế: Trong giai đoạn này Pháp đẩy mạnh thương mại, nông nghiệp và công nghiệp [7, tr.1]. Về nông nghiệp, Pháp cho hệ thống hóa việc trồng trọt lúa nước tại miền Bắc và Tây Nam bộ, trong khi cao su được trồng khắp Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Về thương mại, Pháp đẩy mạnh giao dịch hàng hóa với người Tây và người Hoa; trong khi về mặt công nghiệp, Pháp đẩy mạnh khai khoáng và xây dựng [4].

   Về truyền thống xã hội: Việt Nam trong giai đoạn này có những thay đổi đáng kể về các giá trị xã hội và tư duy [3, tr.54]. Điển hình, bấy giờ địa vị xã hội của người phụ nữ được đề cao hơn; chữ Quốc ngữ được dùng thay thế cho chữ Nôm và chữ Hán; tư duy về số mệnh cố định phần nào được loại bỏ; giáo dục và khoa học có thể giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

   Về chính trị: Giai đoạn này chứng kiến sự ra đời của nhiều tổ chức đấu tranh chính trị, như Tâm Tâm Xã, Phục Việt, Hưng Nam, Việt Nam Nghĩa  Đoàn, Thanh Niên Cao Vọng, và Việt Nam Quốc Dân Đảng [9, tr.242]. Trong đó, phong trào đấu tranh của Việt Nam Quốc Dân Đảng gây được sự chú ý và thu hút được nhiều người tham gia, với mong muốn cải cách Việt Nam thành một quốc gia “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Tuy nhiên, những tổ chức chính trị này chỉ thu hút được giai cấp tiểu tư sản tham gia, nên dần dà chúng bị yếu thế và thất bại [9, tr.255].

II. Sơ lược sự phát triển của Phật giáo Nam kỳ trước và trong giai đoạn 1920 - 1945

   Về tổng quan, việc xác định thời gian cụ thể Phật giáo du nhập vào Việt Nam là một vấn đề còn gây tranh cãi, do thiếu tư liệu lịch sử đáng tin cậy [6, tr.7]. Có nhiều chứng cứ cho thấy Phật giáo du nhập vào Việt Nam vào thế kỷ thứ II sau TL, và Luy Lâu được xem là trung tâm Phật giáo của khu vực. Trong giai đoạn này, nhiều giả thuyết cho rằng Phật giáo từ phía Nam Ấn Độ, qua đường biển và vào Việt Nam. Ngoài ra, nhiều sách sử cho rằng các vị sư Trung Quốc đã tới Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ III [6, tr.8]. Như vậy, Phật giáo du nhập vào Việt Nam tương đối muộn, khoảng thế kỷ thứ II và đầu thế kỷ thứ III TL.

   Vào thế kỷ XVI, Việt Nam được phân chia làm hai phần, Đàng Trong và Đàng Ngoài [6, tr.9]. Điều này phần nào khiến cho Phật giáo Đàng Trong nói chung và Phật giáo Nam Bộ nói riêng có sự khác biệt với Phật giáo Đàng Ngoài, do sự ảnh hưởng của văn hóa địa phương vào nghi thức và sinh hoạt Phật giáo. Nhiều nguồn sử liệu cho thấy, Phật giáo Nam Bộ vào thời kỳ đầu rất đa dạng, với sự du nhập văn hóa Phật giáo từ sự di cư của bốn nhóm người, và đây là bốn hướng chính thành lập nên bản sắc của Phật giáo Nam bộ.

   Hướng thứ nhất: Trong số đoàn di dân từ Thuận Quảng vào Nam kỳ, có nhiều tu sĩ trẻ người Việt và Hoa. Những người này đa phần định cư tại Trấn Biên (Biên Hòa và Thủ Đức ngày nay), và họ đã thành lập nên một mạng lưới chùa chiền thịnh vượng tại Biên Hòa. Những ngôi cổ tự như Đại Giác, Long Thiền, Kim Chương, Khải Tường và Từ Ân là những thành tựu được gây dựng bởi những vị tu sĩ tới từ miền Trung (Thuận Quảng). Có thể nói, những tu sĩ từ miền Trung là người gầy dựng và phát huy Phật giáo trong vùng Gia Định - Đồng Nai trong nhiều thế kỷ, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX [6, tr.10].

   Hướng thứ hai: Vào cuối thế kỷ thứ XVI, Dương Ngạn Địch, một vị tướng nhà Minh, đã dẫn gia quyến tới hàng phục Chúa Nguyễn, và Chúa Nguyễn đã cho Dương Ngạn Địch về vùng Mỹ Tho khai khẩn. Trong đoàn tỵ nạn của Dương Ngạn Địch có nhiều tu sĩ Phật giáo, và những tu sĩ này đã góp phần hình thành nên hệ thống tín ngưỡng Phật giáo mạnh mẽ tại một số vùng Tây Nam Bộ, như Cần Thơ, Tiền Giang, Đồng Tháp. Những ngôi chùa cổ tại những vùng này là những di tích còn sót lại của một thời kỳ phát triển rực rỡ của Phật giáo tại Tây Nam Bộ, được truyền bá bởi những vị sư theo Dương Ngạn Địch [12].

   Hướng thứ ba: Vào đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu đẫn gia quyến từ Quảng Đông qua lập nghiệp tại Hà Tiên. Dưới sự cai trị của Mạc Cửu, Hà Tiên không chỉ trù phú về nông nghiệp và giao thương mà còn phát triển về tín ngưỡng Phật giáo. Mạc Cửu đích thân cho xây dựng ngôi chùa Tam Bảo, mà hiện vẫn tồn tại tại vùng Rạch Giá [6, tr.11].

   Hướng thứ : Người Khmer là những cư dân đầu tiên của nền văn minh Ốc Eo, với lãnh thổ không chỉ bao gồm diện tích hiện tại của Campuchia mà từng bao gồm cả một vùng rộng lớn của Tây Nam Bộ Việt Nam. Theo Nguyễn Khắc Cảnh [1, tr.221], nhiều bằng chứng lịch sử cho thấy dân Khmer, hay còn gọi là Miên, sau một thời gian rút lui khỏi vùng đồng bằng sông Cửu Long, đã trở lại vào thế kỷ thứ XII, và họ định cư rải rác tại nhiều tỉnh lỵ Tây Nam Bộ, nhưng chủ yếu sinh sống tại An Giang, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng và Trà Vinh. Người Khmer theo Phật giáo Nam Tông. Như vậy, Phật giáo Nam Tông nhiều khả năng đã được hình thành tại Nam Bộ vào đầu thế kỷ XII.

III. Những đặc điểm của Phật giáo Nam kỳ trước & trong giai đoạn 1920 - 1945

   Như đã đề cập ở phần trước, Phật giáo Nam kỳ được hình thành và phát triển bởi bốn hướng chính, từ những vị sư miền Trung, từ những vị sư người Hoa theo Dương Ngạn Địch, từ những vị sư di cư theo Mạc Cửu, và những vị sư là người Khmer. Trong đó ba hướng đầu tiên, mặc dù có xuất phát điểm khác nhau, lại rất tương đồng và đều là các nhánh Phật giáo chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Mặc dù theo sử liệu hướng du nhập Phật giáo thứ nhất là từ các sư sãi thuộc miền Trung Việt Nam, nhưng khách quan mà nói thì Phật giáo miền Trung thế kỷ XVI đã chịu ảnh hưởng sâu nặng truyền thống Phật giáo Trung Quốc.

1. Các tông môn của Phật giáo Bắc tông Nam Bộ

Dòng truyền thừa Phật giáo theo truyền thống Trung Quốc hay còn gọi là Bắc tông chịu ảnh hưởng sâu sắc Thiền tông, một nhánh Phật giáo được cho có khởi điểm từ Bồ Đề Đạt Ma, người được xem đã giác ngộ yếu chỉ được truyền thừa từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc dù Thiền tông ở Trung Quốc gồm có 5 tông phái lớn là Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn và Quy Ngưỡng, tuy nhiên ở Việt Nam chỉ có hai tông phái lớn là Lâm Tế và Tào Động [6, tr.22].

1.1. Tông Lâm Tế Đàng Trong

Tông Lâm Tế khi vào Việt Nam lại phân ra thành bốn nhánh: Lâm Tế Tổ Đạo, Dòng Đạo Bổn Ngươn, Dòng Liễu Quán, và Dòng Chúc Thánh.

   Lâm Tế Tổ Đạo là dòng được truyền thừa từ ngài Tổ Định, trú ở núi Tuyết Phong. Trên thực tế, do đây là dòng Lâm Tế chính được truyền vào Việt Nam, và do sự phát triển mạnh mẽ của dòng này tại Nam Bộ, những vị sư thuộc dòng truyền thừa này cho rằng họ là Lâm Tế Chánh Tông. Tên gọi Lâm Tế Tổ Đạo được lấy từ hai từ đầu tiên của bài kệ truyền thừa. Điều này nhằm giúp các thế hệ sau nhớ về nguồn gốc của họ dễ dàng hơn [6, tr.23].

   Dòng Lâm Tế Bổn Ngươn được cho là có nguồn gốc từ ngài Đạo Mẫn - Mộc Trần, hay còn được gọi là Thông Thiện - Hoằng Giác, tu ở chùa Thiên Đồng. Tên của dòng này được gọi theo ba chữ đầu tiên của bài kệ truyền thừa là Đạo Bổn Huyền, nhưng sau được đổi thành Đạo Bổn Ngươn, do vì kỵ húy vua Khang Hy tên Huyền Hoa [6, tr.2]. Cũng xin nói thêm, dòng này cũng là cội nguồn xuất thân của ngài Nguyên Thiều, một vị thiền sư người Hoa nổi tiếng. Tổ đình của dòng này có mặt tại nhiều nơi ở Đông và Tây Nam bộ. Trong đó một số vẫn còn tồn tại tới ngày nay như: Tổ Đình Giác Lâm ( Sài Gòn), Giác Hải (Sài Gòn), Giác Viên (Sài Gòn), Long Thành (Long An), Long Thạnh (Bà Hom), Linh Nguyên  (Long An),  Vĩnh Tràng và Bửu Lâm (Tiền Giang).

   Dòng Liễu Quán chi phái Lâm Tế đời thứ 34 và có nguồn gốc từ ngài Minh Hoằng - Tử Dung. Theo sử liệu [6, tr.26], Tử Dung theo ngài Nguyên Thiều sang trấn Thuận Hóa của Việt Nam vào đầu thế kỷ XVI. Lúc còn tại thế, Tử Dung không lập tông môn riêng mà chỉ thành lập chùa Từ Đàm Huế và trụ trì tại đây. Sau này ông có thâu nhận một số đệ tử, và trong số những đệ tử của ông có ngài Thiệt Diệu - Liễu Quán, người tỉnh Phú Yên, rất giỏi và uyên thâm về thiền. Sau khi ngài Tử Dung tịch, ngài Liễu Quán lập chùa Thiền Tông ở Huế và xuất bài kệ 48 chữ. Những người đệ tử về sau nối truyền bài kệ này, và được cho là người thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán. Lâm Tế Liễu Quán phát triển đặc biệt mạnh ở khu vực Thuận Quảng. Một số nhà sư cùng di dân vào dinh Trấn Biên đã mang theo dòng Liễu Quán truyền thừa dòng này vùng Gia Định, Đồng Nai Tây Ninh [6, tr.27].

   Dòng Chúc Thánh cũng là một dòng thiền thuộc phái Lâm Tế, do ngài Minh Hải - Pháp Bảo, một vị sư gốc Trung Hoa, sáng lập. Theo Thích Như Tịnh [11, tr.10], ngài Minh Hải sinh ngày 28 tháng 6 năm 1670 tại Phúc Kiến, Trung Quốc. Lúc còn nhỏ, ngài đã tỏ ra ưa thích Phật Pháp; nên vào năm 1678, ngài được cha dẫn tới chùa Báo Tư (Quảng Châu) cho xuất gia tu học. Vào năm 1695, ngài là một trong thập sư, trong đó có ngài Tử Dung, được chúa Nguyễn Phúc Chu mời sang Việt Nam truyền giới. Ngày mùng 1 tháng 4 năm 1695, Đại giới đàn được tổ chức tại chùa Thiền Lâm (Thuận Hóa). giới đàn này, Hòa thượng Thạch Liêm làm Đàn đầu, và ngài Minh Hải thuộc một trong Tam sư Thất chứng. Khi giới đàn viên mãn, phái đoàn cùng Hòa thượng Thạch Liêm ra Hội An để lên thuyền về nước. Nhưng vào ngày 19 tháng 4, khi chuẩn bị lên thuyền về nước thì thời tiết trở nên xấu, do đó phải đợi mãi tới tháng 6 năm 1696 phái đoàn mới về nước được. Trong thời gian lưu lại Hội An, thấy yêu mến vùng đất này nên ngài Minh Hải quyết định ở lại hoằng dương Phật pháp. Trong thời gian sống và hoằng pháp tại Hội An, ngài đã lập chùa Chúc Thánh, và tên của ngôi chùa này trở thành tên của dòng truyền thừa mà ngài được xem là Tổ sư. Dòng Chúc Thánh phát triển mạnh mẽ tại Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, dòng Chúc Thánh chỉ chính thức có mặt ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX [11, tr.120].

1.2. Tào Động tông Việt Nam

   Theo Nguyễn Lang [5, tr.22]), Thiền sư Hưng Liên là người đầu tiên truyền bá thiền Tào Động tại Đàng Trong. Ông là một trong thập sư sang Việt Nam cùng với phái đoàn của Thiền sư Nguyên Thiều theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu [5, tr.19]. Trong suốt thời gian lưu trú ở Việt Nam, ngài được phong là quốc sư của xứ Đàng Trong. Chùa Tam Thai, nơi ngài sinh sống trong suốt thời gian tại thế, đã bị hủy hoại trong cuộc nội chiến của Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII, về sau được trùng tu vào năm 1825, dưới triều Minh Mạng [5, tr.22])

   Tuy nhiên, người có công lớn nhất trong việc truyền bá thiền Tào Động ở Đàng Trong là ngài Thạch Liêm. Thiền sư Thạch Liêm, hiệu Đại Sán Ông, người Giang Tây, sinh năm 1633, xuất gia ở chùa Thượng Lam khi còn thiếu niên. Sau khi thọ giới Tỳ-kheo, ngài nhập chúng làm giảng sư tại chùa Trường Thọ ở Quảng Tây. Sau khi thầy trụ trì là Thực Hành mất, ngài được chúng bầu lên làm trụ trì. Với tài hội họa và kiến trúc, Thạch Liêm đã biến chùa Trường Thọ thành một danh thắng nổi tiếng trong khu vực [5, tr.222]. Ngài được quốc sư Đàng Trong, thời bấy giờ là ngài Liên Hưng, tiến cử với chúa Nguyễn Phúc Trăn, và chúa Phúc Trăn đã hai lần mời nhưng ngài đều không thể tới Việt Nam do bận nhiều sự vụ. Vào năm 1694, chúa Nguyễn Phúc Chu lên ngôi. Vì quý mến danh ngài nên chúa lại cho người sang mời. Lần này ngài nhận lời chúa Nguyễn và sang Đàng Trong Việt Nam tổ chức đại giới đàn trong 12  ngày, từ mùng 1 tới 12 tháng 4 năm 1695 [5, tr.223].

Không có nhiều tài liệu mô tả về sự truyền thừa của tông Tào Động tại Đàng Trong, ngoại trừ một ít tư liệu hạn chế viết về Thiền sư Thạch Liêm và quốc sư Hưng Liên. Cho nên chúng ta không có nhiều thông tin về tông phái Tào Động tại Nam Bộ.

2. Phương pháp tu học của Phật giáo Bắc tông Đàng Trong

Rất khó biết được phương pháp tu học của những tu sĩ thuộc hai trường phái thiền Lâm Tế và Tào Động tại việt Nam, bởi vì hầu hết những tư liệu liên quan tới hai phái thiền này đều chỉ nói sơ lược về hành trạng của một số vị sư tiên phong cũng như sự phát triển chùa chiền của chi phái mà thôi. Có lẽ phương pháp tu học của hai phái thiền này Đàng Trong phần nào giống với phương pháp tu học của phái Lâm Tế và Tào Động tại Trung Quốc: Lâm Tế thống khoái, Quy Ngưỡng cẩn nghiêm, Tào Động tế mật, Vân Môn ký cổ, Pháp Nhãn tường minh”.

Trần Tuấn Mẫn [8, tr.55] trong bài viết Thiền tông Việt Nam đã nhấn mạnh rằng Thiền tông Việt Nam vẫn mang đậm tính chất Thiền tông Trung Quốc, nhưng vẫn có những nét rất Việt Nam. Có thể tóm tắt cách thực hành của Thiền tông Việt Nam theo 6 điểm:

- Thiền Việt Nam không phân biệt các đặc điểm của từng thiền phái, không phải hễ các Đại sư Trung Quốc theo thiền phái nào thì các thiền phái Việt Nam theo đúng y phương cách tu tập của thiền phái ấy.

- Tất cả các chùa đều có tụng kinh, niệm Phật, hành thiền; không phân biệt chùa thuộc thiền phái nào.

- Thiền tông Việt Nam không chú trọng “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” mà chú trọng vào sự tĩnh lặng an định của tâm thức.

- Thiền Việt Nam “nhẹ nhàng, hiền lành” chứ không có những cách đối cơ tiếp vật “kỳ khu, khốc liệt” như thiền Trung Quốc.

- Thiền phái không phải là yếu tố quan trọng ở Việt Nam. Kế tục vị thầy khai sơn, các đệ tử về sau ra thành lập chùa riêng, và ngôi chùa đầu tiên ấy được gọi là Tổ đình. Tổ đình ở đây không mang ý thiền phái.

- Các Đại thiền sư Việt Nam thường là thi sĩ, những học giả sáng tác các tác phẩm nghiên cứu luận giảng Phật học.

Cùng ý kiến với Trần Tuấn Mẫn [8, tr.55], chúng tôi cho rằng cả hai phái thiền Lâm Tế và Tào Động tại Nam Bộ đều có sự kết hợp với Tịnh Độ.

   Chúng ta có thể thấy quan niệm Thiền Tịnh song tu của Tào Động tông trong tư tưởng của Thạch Liêm, người được xem là Tổ sư của Tào Động tông Việt Nam. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang [5, tr.476] chép rằng: “Hồi Thạch Liêm dự định về nước, mẹ của chúa Nguyễn Phúc Chu là Tống Thị dọn cơm chay cúng dường, tỏ ý buồn rầu vì sự thầy trò xa cách. Khuyên bà niệm Phật: ‘Sự hội họp chia lìa của con người không phải ở nơi hình hài. Nếu quốc mẫu thường xuyên làm việc lành và nhất tâm niệm Phật không chút gián đoạn thì đó là thầy trò được gần gũi mãi mãi. Còn nếu tâm niệm thường theo đuổi việc trần thì dù lão Tăng có ở đây hàng ngày đối diện cũng xa cách ngàn dặm, rốt cuộc cũng có ích gì. Quốc mẫu nghe mấy câu trên lấy làm mừng rỡ, cầu xin ông chép lại ý ấy bằng giấy mực mà ngày đêm tuân hành. Sau bữa trai tăng, ông về chùa Thiền Lâm viết một bài kệ ngắn cho bà, tựa đề là: Nói về Phật A Di Ðà của tự tính’ (Tự tính Di Đà thuyết)”. Qua đây thấy được tư tưởng của Thạch Liêm không chỉ chú trọng vào Thiền, mà còn về Tịnh Độ. Không chỉ có tinh thần Thiền Tịnh song tu, mà Thạch Liêm còn chủ trương Nho Phật nhất tri khi Đại giới đàn Thiền Lâm năm 1695, ông đã viết hai câu đối:

 “Thích thị trì luật, Nho giả lý trung, tổng yếu tu thân thành ý, tự nhiên kính trực hồ nội, nghĩa phương hồ ngoại;

“Quân tử sắc cơ, Thiền nhân tập định, đồng quy kiến tính minh tâm, đoan do giới thận bất đổ, khủng cụ bất văn”.

dịch:

“Phật gia trì giới, Nho giả lý trung, cốt ở thành ý tu thân, tự nhiên ngoài có nghĩa phương, trong có chính trực;

“Quân tử sắc cơ, Thiền nhân tập định, đều về minh tâm kiến tính, cũng vì răn nơi chẳng thấy, sợ chỗ chẳng nghe”.

Tư tưởng Nho Phật hợp nhất của Thạch Liêm còn thể hiện trong lá thư “Hộ pháp Kim thang” mà ông viết tặng chúa Nguyễn Phúc Chu ngày chúa thọ giới Bồ-tát [5, tr.472-473].

Chúng ta cũng có thể thấy tư tưởng Thiền Tịnh song tu của Lâm Tế tông Việt Nam trong cuốn hành trạng về Thiền sư Pháp Chuyên, đó là Sa-môn Pháp Chuyên luật truyền Diệu Nghiêm Thiền sư xuất thế nhân do tích t [11, tr.127]:

“Phật thừa ư trung nhật thực, viễn ly tài sắc, bất thiệp thế duyên, cầu khán kinh Phật, tinh cần cầu đạo, tụng Đại Bi chú nhất tạng, đnh lễ tam thiên vạn Phật hồng danh các hữu ngũ biến, dĩ thiện căn cầu chướng tội tiêu, tảo thành Phật đạo...”

Dịch: “Ngày ăn một bữa, xa lìa tài sắc, không vướng chuyện thế sự, thường xem kinh Phật,  siêng năng cầu đạo, tụng chú Đại bi một tạng, lễ lạy tam thiên và vạn Phật, mỗi tôn hiệu năm lần, lấy thiện căn tu dưỡng này, cầu sớm thành Phật đạo.”

IV. Kết luận

   Trong bài viết này, chúng tôi đã khắc họa sơ lược về tình hình kinh tế xã hội trước và trong giai đoạn 1920 - 1945, sơ lược lịch sử Phật giáo Nam Bộ cũng như những đặc điểm của Phật giáo Nam Bộ trước và trong giai đoạn 1920 - 1945.

   Về chính trị-xã hội: Giai đoạn này chứng kiến sự bóc lột tàn nhẫn các nước thuộc địa của các nước đế quốc thực dân. Và trong bối cảnh Việt Nam, thực dân Pháp ra sức bóc lột sức lao động cũng như tài nguyên của ngươi Việt. Sự bóc lột của chúng khiến nhân dân lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên trong giai đoạn này, Việt Nam có một bước đột phá về k nghệ và giáo dục. Về k nghệ, ngành công nghiệp chế biến và xây dựng phát triển mạnh. Về giáo dục, hệ thống trường tiểu học, trung học và phổ thông được xây dựng nhiều vùng miền đất nước.

Về lịch sử phát triển Phật giáo: Trong giai đoạn 1920-1945, có hai truyền thống Phật giáo phát triển mạnh tại Nam bộ, Bắc tông và Nam tông. Phật giáo Bắc tông chủ yếu chịu ảnh hưởng Phật giáo Thiền Trung Quốc, với hai thiền phái Lâm Tế và Tào Động. Nhưng khác với nguyên bản tại Trung Hoa, Phật giáo Bắc tông tại Nam Bộ chủ trương sự kết hợp giữa tinh thần Thiền Trung Quốc và văn hóa Việt Nam. Với sự kết hợp này, Thiền Tịnh song tu là yếu chỉ tu học cho mỗi tu viện.

Trong bài viết này, vì thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ khảo cứu được đặc điểm và tính chất của Phật giáo Nam Bộ trước và trong giai đoạn 1920-1945. Vì vậy, chúng tôi xin đưa ra một vài đề xuất cho những nghiên cứu tiếp theo liên quan đến đề tài này. Chẳng hạn, nghiên cứu về sự phát triển của Phật giáo Nam Bộ giai đoạn 1945 - 1975, và giai đoạn 1975 đến nay. Chúng tôi nghĩ rằng, những nghiên cứu này nếu được tiến hành sẽ xây dựng được một bức tranh tổng thể về đặc điểm và sự phát triển của Phật giáo ở Nam Bộ từ khởi đầu cho đến hiện tại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Nguyễn, Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB.ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.

2.      Đoàn, Trung Còn (2018), Các tông phái đạo Phật, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

3.      David, G. Marr (1984). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Califonia: University of California Press.

4.      Trần Thị Phương Hoa (2009). Franco-Vietnamese schools and the transition from Confucian to a new kind of intellectuals in the colonial context of Tonkin: Harvard Graduate Students Conference on East Asia in February 2009. Tham khảo tại https://harvard-yenching.org/

5.      Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử Luận toàn tập, NXB.Văn Học, Hà Nội.

6.      Trần Hồng Liên (1995), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ Việt Nam từ thế kỷ XVII đến 1975, NXB.Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.

7.      Nguyễn Hoa Mai (2019), Tiếp biến văn hóa Pháp - Việt trong nền giáo dục Việt Nam 1884-1945, luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

8.      Trần Tuấn Mẫn (2017), “Thiền Tông Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 275, trang 52-58.

9.      Nguyễn Quang Ngọc (2006), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB.Giáo Dục, Hà Nội.

10.  Trần Bích San (2018), Thi cử và giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc (phần 1). Tham khảo tại http://www.vanhoahoc.vn/

11.  Thích Như Tịnh (2009), Lịch s truyền thừa Thiền phái Chúc Thánh. NXB.Phương Đông, Tp.HCM.

12.  Nguyễn Tuấn Triết (2012). Góp phần tìm hiểu Trần Thượng Xuyên và cộng đồng người Hoa tại Đông Nam Bộ. Tham khảo tại  http://www.sugia.vn/

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác