Sự Phát Triển & Đặc Điểm của Phật Giáo Nam Kỳ, Giai Đoạn 1920 - 1945
Sự Phát Triển & Đặc Điểm của Phậ
Sự Phát Triển & Đặc Điểm của Phật Giáo Nam Kỳ, Giai Đoạn 1920
-
1945
Thích Đồng Hạnh
I. Bối cảnh lịch sử Nam kỳ giai đoạn 1920
-
1945
Sau Đệ I thế chiến, các nước thắng trận
đã
chia lại trật tự thế giới theo hệ thống mới, hệ thống Vecxai-Wasington. Theo hệ
thống này, các nước tư bản như Anh, Pháp, Mỹ và Nhật Bản chiếm quyền lợi kinh
tế, và họ ra sức áp đặt áp bức lên những nước bại trận và những nước thuộc địa [3,
tr.15].
Là một phần của bán đảo Đông Dương, Việt Nam
trở thành
thuộc địa của Pháp và không thoát khỏi sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp
trong giai đoạn này.
Vào
đầu thế kỷ
XX,
đời sống nhân dân
Việt Nam
vô cùng biến động và khổ cực, do sự bóc lột hà khắc của Pháp.
Về giáo dục:
Trong
giai đoạn này Việt Nam tiếp thu văn hóa giáo dục từ nhiều quốc gia, như Ấn Độ,
Nhật Bản và Pháp. Tuy nhiên, vì là một phần của bán
đảo
Đông Dương, Việt Nam
chịu ảnh hưởng sâu nặng từ văn hóa giáo dục của người Pháp [7,
tr.15].
Theo đó, nền giáo dục khoa bảng được xây dựng từ Nho học
đã
bị loại bỏ, thay vào đó là một nền giáo dục có tính phổ thông từ
tiểu
học
tới
trung
học
và
cao
đẳng
[10].
Bằng cách giáo dục này, Pháp muốn đào tạo người bản xứ có khả năng làm trung
gian cho Pháp tại Việt Nam, như thông dịch viên hay kỹ sư xây dựng. Cũng trong
thời kỳ, Pháp mở rộng
giáo
dục
nghề
cho người Việt, mục đích là
để
đào tạo nguồn nhân lực cho việc khai thác thuộc địa hiệu quả hơn [4].
Về kinh tế:
Trong
giai đoạn này Pháp đẩy mạnh thương mại, nông nghiệp và công nghiệp [7,
tr.1].
Về nông nghiệp, Pháp cho hệ thống hóa việc trồng trọt lúa nước tại miền Bắc và
Tây Nam bộ, trong khi cao su được trồng khắp Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Về
thương mại, Pháp đẩy mạnh giao dịch hàng hóa với người Tây và người Hoa;
trong khi về mặt công nghiệp, Pháp đẩy mạnh khai khoáng và xây dựng [4].
Về truyền thống xã hội: Việt Nam trong giai đoạn này có những
thay đổi đáng kể về các giá trị xã hội và tư duy [3,
tr.54].
Điển hình,
bấy giờ
địa vị xã hội của người phụ nữ được đề cao hơn; chữ Quốc ngữ được dùng thay thế
cho chữ Nôm và chữ Hán; tư duy về số mệnh cố định
phần nào
được loại bỏ; giáo dục và khoa học có thể giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Về chính trị:
Giai
đoạn này chứng kiến sự ra đời của nhiều tổ chức đấu tranh chính trị, như Tâm Tâm
Xã, Phục Việt, Hưng Nam, Việt Nam Nghĩa Đoàn, Thanh Niên Cao Vọng,
và Việt Nam Quốc Dân Đảng [9,
tr.242].
Trong đó, phong trào đấu tranh của Việt Nam Quốc Dân Đảng gây được sự chú ý và
thu hút được nhiều người tham gia,
với mong muốn
cải cách Việt Nam thành một quốc gia “Tự
do
- Bình
đẳng
- Bác
ái”.
Tuy nhiên, những tổ chức chính trị này chỉ thu hút được giai cấp tiểu tư sản
tham gia, nên dần dà
chúng
bị yếu thế và thất bại [9,
tr.255].
II. Sơ
lược
sự phát triển của Phật giáo Nam kỳ trước và trong giai đoạn 1920
-
1945
Về tổng quan, việc xác định thời gian cụ thể Phật giáo du nhập vào Việt Nam
là một vấn đề
còn
gây tranh cãi, do thiếu tư liệu lịch sử đáng tin cậy [6,
tr.7].
Có nhiều chứng cứ cho thấy Phật giáo du nhập vào Việt Nam vào thế kỷ thứ II sau
TL,
và Luy Lâu được xem là trung tâm Phật giáo của khu vực. Trong giai đoạn này,
nhiều giả thuyết cho rằng Phật giáo từ phía Nam Ấn
Độ,
qua đường biển và vào Việt Nam. Ngoài ra, nhiều sách sử cho rằng các vị sư Trung
Quốc
đã
tới Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ III [6,
tr.8].
Như vậy,
Phật giáo du nhập vào Việt Nam tương đối muộn, khoảng thế kỷ thứ II và đầu thế
kỷ thứ III TL.
Vào thế kỷ XVI, Việt Nam được phân chia làm hai phần, Đàng Trong và Đàng
Ngoài [6,
tr.9].
Điều này phần nào khiến cho Phật giáo Đàng Trong nói chung và Phật giáo Nam Bộ
nói riêng có sự khác biệt với Phật giáo Đàng Ngoài, do sự ảnh hưởng của văn hóa
địa phương vào nghi thức và sinh hoạt Phật giáo. Nhiều nguồn sử liệu cho thấy,
Phật giáo Nam Bộ vào thời kỳ đầu rất đa dạng, với sự du nhập văn hóa Phật giáo
từ sự di cư của bốn nhóm người, và đây là bốn hướng chính thành lập nên bản sắc
của Phật giáo Nam bộ.
Hướng thứ nhất: Trong số đoàn di dân từ Thuận Quảng vào Nam kỳ,
có nhiều tu sĩ trẻ người Việt và Hoa. Những người này đa phần định cư tại Trấn
Biên (Biên Hòa và Thủ Đức ngày nay), và họ đã thành lập nên một mạng lưới chùa
chiền thịnh vượng tại Biên Hòa. Những ngôi cổ tự như Đại Giác, Long Thiền, Kim
Chương, Khải Tường và Từ Ân là những thành tựu được gây dựng bởi những vị tu sĩ
tới từ miền Trung (Thuận Quảng). Có thể nói, những tu sĩ từ miền Trung là người
gầy dựng và phát huy Phật giáo trong vùng Gia Định - Đồng Nai trong nhiều thế
kỷ, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX [6,
tr.10].
Hướng thứ hai: Vào cuối thế kỷ thứ XVI, Dương Ngạn Địch, một vị
tướng nhà Minh, đã dẫn gia quyến tới hàng phục Chúa Nguyễn, và Chúa Nguyễn đã
cho Dương Ngạn Địch về vùng Mỹ Tho khai khẩn. Trong đoàn tỵ nạn của Dương Ngạn
Địch có nhiều tu sĩ Phật giáo, và những tu sĩ này đã góp phần hình thành nên hệ
thống tín ngưỡng Phật giáo mạnh mẽ tại một số vùng Tây Nam Bộ, như Cần Thơ, Tiền
Giang, Đồng Tháp. Những ngôi chùa cổ tại những vùng này là những di tích còn sót
lại của một thời kỳ phát triển rực rỡ của Phật giáo tại Tây Nam Bộ, được truyền
bá bởi những vị sư theo Dương Ngạn Địch [12].
Hướng thứ
ba:
Vào đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu đẫn gia quyến từ Quảng Đông qua lập nghiệp tại Hà
Tiên. Dưới sự cai trị của Mạc Cửu, Hà Tiên không chỉ trù phú về nông nghiệp và
giao thương mà còn phát triển về tín ngưỡng Phật giáo. Mạc Cửu đích thân cho xây
dựng ngôi chùa Tam Bảo, mà hiện vẫn tồn tại tại vùng Rạch Giá
[6,
tr.11].
Hướng thứ
tư:
Người Khmer là những cư dân đầu tiên của nền văn minh Ốc Eo, với lãnh thổ không
chỉ bao gồm diện tích hiện tại của Campuchia mà từng bao gồm cả một vùng rộng
lớn của Tây Nam Bộ Việt Nam. Theo Nguyễn Khắc Cảnh [1,
tr.221],
nhiều bằng chứng lịch sử cho thấy dân Khmer, hay còn gọi là Miên, sau một thời
gian rút lui khỏi vùng đồng bằng sông Cửu Long, đã trở lại vào thế kỷ thứ XII,
và họ định cư rải rác tại nhiều tỉnh lỵ Tây Nam Bộ, nhưng chủ yếu sinh sống tại
An Giang, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng và Trà Vinh. Người Khmer theo Phật
giáo Nam Tông. Như vậy, Phật giáo Nam Tông nhiều khả năng đã được hình thành tại
Nam Bộ vào đầu thế kỷ XII.
III.
Những đặc điểm của Phật giáo Nam kỳ trước & trong giai đoạn 1920 - 1945
Như đã đề cập ở phần trước, Phật giáo Nam kỳ được hình thành và phát triển
bởi bốn hướng chính, từ những vị sư miền Trung, từ những vị sư người Hoa theo
Dương Ngạn Địch, từ những vị sư di cư theo Mạc Cửu, và những vị sư là người
Khmer. Trong đó ba hướng đầu tiên, mặc dù có xuất phát điểm khác nhau, lại rất
tương đồng và đều là các nhánh Phật giáo chịu ảnh hưởng văn hóa Trung
Quốc.
Mặc dù theo sử liệu hướng du nhập Phật giáo thứ nhất là từ các sư sãi thuộc miền
Trung Việt Nam, nhưng khách quan mà nói thì Phật giáo miền Trung thế kỷ XVI đã
chịu ảnh hưởng sâu nặng truyền thống Phật giáo Trung
Quốc.
1. Các tông môn của Phật giáo Bắc tông Nam Bộ
Dòng truyền thừa Phật giáo theo truyền thống Trung
Quốc
hay còn gọi là Bắc tông chịu ảnh hưởng sâu sắc Thiền tông, một nhánh Phật giáo
được cho có khởi điểm từ Bồ Đề Đạt Ma, người được xem đã giác ngộ yếu chỉ được
truyền thừa từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc dù Thiền tông ở Trung Quốc gồm có 5
tông phái lớn là Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn và Quy Ngưỡng, tuy nhiên ở
Việt Nam chỉ có hai tông phái lớn là Lâm Tế và Tào Động [6,
tr.22].
1.1.
Tông Lâm Tế Đàng Trong
Tông Lâm Tế khi vào Việt Nam lại phân ra thành bốn nhánh: Lâm Tế Tổ Đạo, Dòng
Đạo Bổn Ngươn, Dòng Liễu Quán, và Dòng Chúc Thánh.
Lâm Tế Tổ Đạo là dòng được truyền thừa từ ngài Tổ Định, trú ở núi Tuyết
Phong. Trên thực tế, do đây là dòng Lâm Tế chính được truyền vào Việt Nam, và do
sự phát triển mạnh mẽ của dòng này tại Nam Bộ, những vị sư thuộc dòng truyền
thừa này cho rằng họ là Lâm Tế Chánh Tông. Tên gọi Lâm Tế Tổ Đạo được lấy từ hai
từ đầu tiên của bài kệ truyền thừa. Điều này nhằm giúp các thế hệ sau nhớ về
nguồn gốc của họ dễ dàng hơn
[6, tr.23].
Dòng Lâm Tế Bổn Ngươn được cho là có nguồn gốc từ ngài Đạo Mẫn - Mộc Trần,
hay còn được gọi là Thông Thiện - Hoằng Giác, tu ở chùa Thiên Đồng. Tên của dòng
này được gọi theo ba chữ đầu tiên của bài kệ truyền thừa là Đạo Bổn Huyền, nhưng
sau được đổi thành Đạo Bổn Ngươn, do vì kỵ húy vua Khang Hy tên Huyền Hoa [6,
tr.2].
Cũng xin nói thêm, dòng này cũng là cội nguồn xuất thân của ngài Nguyên Thiều,
một vị thiền sư người Hoa nổi tiếng. Tổ đình của dòng này có mặt tại nhiều nơi ở
Đông và Tây Nam bộ. Trong đó một số vẫn còn tồn tại tới ngày nay như: Tổ Đình
Giác Lâm (
Sài Gòn),
Giác Hải (Sài
Gòn),
Giác Viên (Sài
Gòn),
Long Thành (Long An), Long Thạnh (Bà Hom), Linh Nguyên
(Long
An), Vĩnh Tràng và Bửu Lâm (Tiền Giang).
Dòng Liễu Quán
là
chi phái Lâm Tế đời thứ 34 và có nguồn gốc từ ngài Minh Hoằng - Tử Dung. Theo sử
liệu [6,
tr.26],
Tử Dung theo ngài Nguyên Thiều sang trấn Thuận Hóa của Việt Nam vào đầu thế kỷ
XVI. Lúc còn tại thế, Tử Dung không lập tông môn riêng mà chỉ thành lập chùa Từ
Đàm
ở
Huế và trụ trì tại đây. Sau này ông có thâu nhận một số đệ tử, và trong số những
đệ tử của ông có ngài Thiệt Diệu - Liễu Quán, người tỉnh Phú Yên, rất giỏi và
uyên thâm về thiền.
Sau
khi
ngài
Tử Dung tịch,
ngài Liễu Quán
lập chùa Thiền Tông ở Huế và xuất bài kệ 48 chữ. Những người đệ tử
về sau
nối truyền bài kệ này, và được cho là người
thuộc
dòng Lâm Tế Liễu Quán. Lâm Tế Liễu Quán
phát triển
đặc biệt
mạnh ở khu vực Thuận Quảng. Một số nhà sư
cùng
di dân vào dinh Trấn Biên
đã
mang theo dòng Liễu Quán
và
truyền thừa
dòng này
ở
vùng Gia Định,
Đồng Nai
và
Tây Ninh [6,
tr.27].
Dòng Chúc Thánh cũng là một dòng thiền thuộc phái Lâm Tế,
do ngài Minh Hải - Pháp Bảo,
một vị sư gốc Trung
Hoa,
sáng lập.
Theo Thích Như Tịnh [11,
tr.10], ngài
Minh Hải sinh ngày 28 tháng
6 năm 1670 tại Phúc Kiến,
Trung Quốc. Lúc
còn
nhỏ,
ngài đã tỏ ra ưa thích Phật Pháp; nên vào năm 1678, ngài
được cha
dẫn tới chùa Báo Tư (Quảng Châu)
cho
xuất gia tu học. Vào năm 1695, ngài là một trong
thập
sư, trong đó có ngài Tử Dung, được chúa Nguyễn Phúc Chu mời sang Việt Nam truyền
giới. Ngày mùng 1 tháng 4 năm 1695, Đại
giới
đàn
được tổ chức tại chùa Thiền Lâm (Thuận Hóa).
Ở
giới đàn
này,
Hòa thượng Thạch Liêm làm Đàn
đầu,
và ngài
Minh Hải thuộc
một trong
Tam
sư
Thất
chứng. Khi
giới
đàn viên mãn, phái đoàn cùng
Hòa
thượng Thạch Liêm ra Hội An để lên thuyền về nước. Nhưng
vào ngày
19 tháng 4,
khi chuẩn bị lên thuyền về
nước
thì
thời tiết
trở nên
xấu,
do đó
phải đợi mãi tới tháng 6 năm 1696
phái đoàn
mới về
nước
được. Trong thời gian
lưu
lại
Hội An,
vì
thấy yêu mến
vùng đất này
nên ngài Minh Hải
quyết định ở lại hoằng dương Phật pháp. Trong thời gian
sống
và hoằng pháp tại Hội An, ngài
đã
lập chùa Chúc Thánh, và tên của ngôi chùa
này
trở thành tên của dòng truyền thừa mà ngài được xem là
Tổ
sư. Dòng Chúc Thánh phát triển mạnh mẽ tại Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình
Thuận trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, dòng Chúc Thánh chỉ chính thức có mặt ở Nam
Bộ
vào cuối thế kỷ
XIX
và đầu thế kỷ
XX
[11,
tr.120].
1.2. Tào Động
tông
Việt Nam
Theo Nguyễn Lang [5,
tr.22]),
Thiền sư Hưng Liên là người đầu tiên truyền bá thiền Tào Động tại Đàng Trong.
Ông là một trong thập sư sang Việt Nam
cùng với
phái đoàn của
Thiền
sư Nguyên Thiều theo lời mời của
chúa
Nguyễn Phúc Chu [5,
tr.19].
Trong
suốt thời gian lưu
trú ở
Việt Nam,
ngài
được phong là quốc sư của xứ Đàng Trong.
Chùa
Tam Thai, nơi
ngài
sinh sống trong suốt thời gian tại thế,
đã
bị hủy hoại
trong cuộc nội chiến của Việt Nam vào cuối thế kỷ
XVIII,
về sau
được trùng tu
vào
năm 1825,
dưới triều
Minh
Mạng [5,
tr.22])
Tuy nhiên,
người có công lớn nhất trong việc truyền bá thiền Tào Động ở Đàng Trong là
ngài
Thạch Liêm. Thiền sư Thạch Liêm, hiệu Đại Sán Ông, người Giang Tây, sinh năm
1633, xuất gia ở chùa Thượng Lam
khi còn thiếu niên.
Sau khi thọ giới Tỳ-kheo,
ngài
nhập chúng làm giảng sư tại chùa Trường Thọ ở Quảng Tây. Sau khi
thầy trụ trì là Thực Hành mất,
ngài
được chúng bầu lên làm trụ trì. Với tài hội họa và kiến trúc, Thạch Liêm đã biến
chùa Trường Thọ thành một danh thắng nổi tiếng trong khu vực [5,
tr.222].
Ngài
được quốc sư Đàng Trong, thời bấy giờ là
ngài
Liên Hưng, tiến cử với chúa Nguyễn Phúc Trăn, và chúa Phúc Trăn đã hai lần mời
nhưng
ngài
đều không thể tới Việt Nam do
bận
nhiều sự vụ. Vào năm 1694, chúa Nguyễn Phúc Chu lên ngôi.
Vì
quý mến danh
ngài nên
chúa lại cho người sang mời. Lần này
ngài
nhận lời chúa Nguyễn và sang Đàng Trong Việt Nam tổ chức
đại
giới
đàn
trong 12 ngày, từ mùng 1 tới 12 tháng 4 năm 1695 [5,
tr.223].
Không có nhiều
tài
liệu mô tả về sự truyền thừa của
tông
Tào Động tại Đàng Trong, ngoại trừ một ít tư liệu hạn chế viết về
Thiền
sư Thạch Liêm và quốc sư Hưng Liên. Cho nên chúng ta
không có nhiều thông tin
về tông phái Tào Động tại Nam Bộ.
2. Phương pháp tu học của Phật giáo Bắc tông
ở
Đàng Trong
Rất khó
biết được
phương pháp tu học của những tu sĩ thuộc hai trường phái thiền Lâm Tế và Tào
Động
tại việt Nam, bởi vì hầu hết những tư liệu liên quan tới hai phái thiền này đều
chỉ nói sơ lược về hành trạng của một số vị sư tiên phong cũng như sự phát triển
chùa chiền của chi phái mà thôi.
Có lẽ
phương pháp tu học của hai phái thiền
này
ở
Đàng Trong phần nào giống
với
phương pháp tu học của
phái
Lâm Tế và Tào
Động
tại
Trung
Quốc:
“Lâm
Tế thống khoái,
Quy Ngưỡng cẩn nghiêm,
Tào Động tế mật,
Vân Môn ký cổ,
Pháp Nhãn tường minh”.
Trần Tuấn Mẫn [8,
tr.55]
trong bài viết
“Thiền
tông
Việt Nam”
đã nhấn mạnh rằng Thiền
tông
Việt Nam vẫn mang đậm tính chất Thiền
tông
Trung
Quốc,
nhưng vẫn có những nét rất Việt Nam. Có thể tóm tắt cách thực hành của Thiền
tông
Việt Nam theo 6 điểm:
-
Thiền Việt Nam không phân biệt các đặc điểm của từng
thiền
phái, không phải
hễ
các Đại sư Trung
Quốc
theo
thiền
phái nào
thì
các
thiền
phái Việt Nam theo đúng
y
phương cách tu tập của
thiền
phái ấy.
-
Tất cả các chùa đều có tụng kinh, niệm Phật, hành thiền; không phân biệt chùa
thuộc
thiền
phái nào.
-
Thiền tông Việt Nam không chú trọng “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” mà
chú trọng vào sự tĩnh lặng
và
an định của tâm thức.
-
Thiền Việt Nam “nhẹ nhàng, hiền lành” chứ không có những cách đối cơ tiếp vật
“kỳ khu, khốc liệt” như
thiền
Trung
Quốc.
-
Thiền phái không phải là yếu tố quan trọng ở Việt Nam.
Kế
tục vị
thầy
khai sơn, các đệ tử về sau
ra
thành lập chùa riêng,
và ngôi chùa đầu tiên ấy
được gọi là Tổ đình.
Tổ đình
ở đây
không mang ý
thiền
phái.
-
Các
Đại
thiền
sư Việt Nam thường là thi sĩ, những học giả
sáng
tác
các
tác phẩm nghiên cứu
và
luận giảng Phật học.
Cùng ý kiến với Trần Tuấn Mẫn [8,
tr.55],
chúng tôi cho rằng cả hai phái
thiền
Lâm Tế và Tào Động tại Nam Bộ đều có sự kết hợp với Tịnh
Độ.
Chúng ta có thể thấy quan niệm
“Thiền
Tịnh song tu”
của Tào Động tông trong tư tưởng của Thạch Liêm, người được xem là
Tổ
sư của Tào Động tông Việt Nam. Trong Việt Nam
Phật giáo
sử luận,
Nguyễn Lang
[5, tr.476]
chép rằng: “Hồi Thạch Liêm dự định về nước, mẹ của chúa
Nguyễn Phúc Chu là Tống Thị dọn cơm chay cúng dường, tỏ ý buồn rầu vì sự thầy
trò xa cách. Khuyên bà niệm Phật: ‘Sự hội họp chia lìa của con người không phải
ở nơi hình hài. Nếu quốc mẫu thường xuyên làm việc lành và nhất tâm niệm Phật
không chút gián đoạn thì đó là thầy trò được gần gũi mãi mãi. Còn nếu tâm niệm
thường theo đuổi việc trần thì dù lão
Tăng
có ở đây hàng ngày đối diện cũng xa cách ngàn dặm, rốt cuộc cũng có ích gì. Quốc
mẫu nghe mấy câu trên lấy làm mừng rỡ, cầu xin ông chép lại ý ấy bằng giấy mực
mà ngày đêm tuân hành. Sau bữa trai tăng, ông về chùa Thiền Lâm viết một bài kệ
ngắn cho bà, tựa đề là:
‘Nói
về Phật A Di Ðà của tự tính’
(Tự tính Di Đà thuyết)”.
Qua đây thấy được tư tưởng của Thạch Liêm không chỉ chú trọng vào
Thiền,
mà còn về
Tịnh
Độ.
Không chỉ có tinh thần
Thiền
Tịnh
song tu, mà Thạch Liêm còn chủ trương Nho Phật nhất tri khi
ở
Đại
giới
đàn
Thiền Lâm năm 1695, ông
đã
viết hai câu đối:
“Thích thị trì luật,
Nho
giả lý trung, tổng yếu
tu thân thành ý, tự nhiên kính trực hồ nội, nghĩa phương hồ ngoại;
“Quân tử sắc cơ,
Thiền
nhân tập định, đồng quy kiến tính minh tâm, đoan do giới thận bất đổ, khủng cụ
bất văn”.
dịch:
“Phật gia trì giới, Nho giả lý trung, cốt ở thành ý tu thân, tự nhiên ngoài có
nghĩa phương, trong có chính trực;
“Quân tử sắc cơ, Thiền nhân tập định, đều về minh tâm kiến tính, cũng vì răn nơi
chẳng thấy, sợ chỗ chẳng nghe”.
Tư tưởng Nho Phật hợp nhất của Thạch Liêm còn thể hiện trong lá thư “Hộ
pháp
Kim thang”
mà ông viết tặng chúa Nguyễn Phúc Chu ngày chúa thọ giới Bồ-tát
[5,
tr.472-473].
Chúng ta cũng có thể thấy tư tưởng
Thiền
Tịnh
song tu
của
Lâm Tế tông Việt Nam trong cuốn hành trạng về
Thiền
sư Pháp Chuyên,
đó là
Sa-môn
Pháp Chuyên
luật
truyền
Diệu Nghiêm Thiền
sư
xuất
thế
nhân
do
tích
trí
[11,
tr.127]:
“Phật thừa ư trung nhật thực, viễn ly tài sắc, bất thiệp thế duyên, cầu khán
kinh Phật, tinh cần cầu đạo, tụng Đại Bi chú nhất tạng, đảnh
lễ tam thiên vạn Phật hồng
danh
các hữu ngũ biến, dĩ thiện căn cầu chướng tội tiêu, tảo thành Phật đạo...”
Dịch: “Ngày ăn một bữa, xa lìa tài sắc, không vướng chuyện thế sự, thường xem
kinh Phật, siêng năng cầu đạo, tụng chú Đại bi một tạng, lễ lạy
tam
thiên
và
vạn
Phật, mỗi tôn hiệu năm lần, lấy thiện căn tu dưỡng này, cầu sớm thành Phật đạo.”
IV. Kết
luận
Trong
bài
viết
này, chúng tôi đã khắc họa sơ lược về tình hình kinh tế xã hội trước và trong
giai đoạn 1920
-
1945, sơ lược lịch sử Phật giáo Nam
Bộ
cũng như những đặc điểm của Phật giáo Nam
Bộ
trước và trong giai đoạn 1920
-
1945.
Về chính trị-xã
hội:
Giai
đoạn này chứng kiến sự bóc lột tàn nhẫn các nước thuộc địa của các nước
đế
quốc
thực
dân.
Và trong bối cảnh Việt Nam, thực dân Pháp ra sức bóc lột sức lao động cũng như
tài nguyên của ngươi Việt. Sự bóc lột của chúng khiến nhân dân lâm vào hoàn cảnh
khó khăn. Tuy nhiên trong giai đoạn này, Việt Nam có một bước đột phá về kỹ
nghệ và giáo dục. Về kỹ
nghệ, ngành công nghiệp chế biến và xây dựng phát triển mạnh. Về giáo dục, hệ
thống trường tiểu học, trung học và phổ thông được xây dựng
ở
nhiều vùng miền đất nước.
Về lịch sử phát triển Phật giáo:
Trong
giai đoạn 1920-1945,
có hai truyền thống Phật giáo phát triển mạnh tại Nam bộ, Bắc tông và Nam tông.
Phật giáo Bắc tông
chủ yếu chịu
ảnh hưởng Phật giáo Thiền Trung
Quốc,
với hai
thiền phái
Lâm Tế và Tào Động. Nhưng khác với nguyên bản tại Trung Hoa, Phật giáo Bắc tông
tại Nam
Bộ
chủ trương sự kết hợp giữa tinh thần Thiền Trung
Quốc
và văn hóa Việt Nam. Với sự kết hợp này, Thiền Tịnh
song
tu
là yếu chỉ tu học cho mỗi tu viện.
Trong
bài viết
này,
vì thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ khảo cứu được đặc điểm và tính chất của
Phật giáo Nam
Bộ
trước và trong giai đoạn 1920-1945. Vì vậy, chúng tôi
xin đưa ra một vài
đề xuất
cho
những nghiên cứu tiếp theo
liên quan đến đề tài
này. Chẳng hạn, nghiên cứu về sự phát
triển
của Phật giáo Nam
Bộ
giai đoạn 1945
-
1975,
và giai đoạn 1975
đến nay.
Chúng tôi
nghĩ
rằng, những nghiên cứu này nếu được tiến hành sẽ xây dựng được
một bức tranh tổng thể về đặc điểm và sự phát triển của Phật giáo
ở Nam Bộ
từ
khởi đầu
cho đến
hiện tại.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn, Khắc Cảnh (2000), Sự hình thành cộng đồng người Khmer vùng đồng bằng
sông Cửu Long,
NXB.ĐHQG
Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
2.
Đoàn, Trung Còn (2018), Các tông phái đạo Phật, NXB.Tôn
Giáo, Hà Nội.
3.
David, G. Marr (1984). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945.
Califonia: University of California Press.
4.
Trần Thị Phương Hoa (2009). Franco-Vietnamese schools and the transition from
Confucian to a new kind of intellectuals in the colonial context of Tonkin:
Harvard Graduate Students Conference on East Asia in February 2009. Tham khảo
tại https://harvard-yenching.org/
5.
Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo
sử
Luận toàn tập,
NXB.Văn
Học, Hà Nội.
6.
Trần Hồng Liên (1995), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ Việt Nam
từ thế kỷ XVII đến 1975,
NXB.Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội.
7.
Nguyễn Hoa Mai (2019), Tiếp biến văn hóa Pháp
- Việt trong nền giáo dục Việt Nam 1884-1945,
luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học, Học viện Chính
trị Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
8.
Trần Tuấn Mẫn (2017), “Thiền Tông Việt Nam”, Tạp
chí
Văn hóa Phật giáo,
số 275, trang 52-58.
9.
Nguyễn Quang Ngọc (2006), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB.Giáo
Dục, Hà Nội.
10.
Trần Bích San (2018), Thi cử và giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc (phần 1).
Tham khảo tại
http://www.vanhoahoc.vn/
11.
Thích Như Tịnh (2009), Lịch
sử
truyền
thừa
Thiền
phái
Chúc Thánh.
NXB.Phương
Đông, Tp.HCM.
12.
Nguyễn Tuấn Triết (2012). Góp phần tìm hiểu Trần Thượng Xuyên và cộng đồng
người Hoa tại Đông
Nam Bộ.
Tham khảo tại http://www.sugia.vn/