Tư tưởng bình đẳng của Đức Phật
TƯ TƯỞNG BÌNH ĐẲNG CỦA ĐỨC PHẬT
TƯ TƯỞNG BÌNH ĐẲNG CỦA ĐỨC PHẬT
Tỷ-kheo
Thích Hoằng Trí
Đức Phật xuất hiện trên thế
gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của
Ngài
đã mang lại những giá trị phổ quát cho nhân loại suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ
nay. Sau khi giác ngộ, Ngài
đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại làm thay đổi nhiều quan niệm sai lầm cố
hữu tồn tại hàng ngàn năm tại Ấn Độ, giải phóng những khổ đau cho tầng lớp hạ
tiện bị khinh rẻ và áp bức lúc bấy giờ. Trong vô số giáo lý mà
Ngài
đã thuyết giảng, tư tưởng bình đẳng là một trong những giáo lý nhiệm mầu giúp
phá tan định kiến xã hội nhìn giá trị con người phát xuất từ chủng tính.
Sau khi người Aryan xâm
chiếm Ấn Độ,
tạo thành sự phân biệt tôn ti giữa kẻ chinh phục và dân bản xứ, từ đó dần dần
diễn biến thành hiện tượng phân hóa và thế tập về chức nghiệp. Có lẽ sự xác lập
chế độ này kéo dài đến mãi thời đại Phạm thư (1000 tr.TL-800 tr.TL), vì vào thời
đại này chủ nghĩa “Bà-la-môn chí thượng”
được
hình thành. Giai cấp Bà-la-môn
tự cho rằng họ từ miệng Phạm thiên sinh ra; Sát-đế-lợi từ hai vai Phạm thiên
sinh ra; Phệ-xá từ rốn Phạm thiên sinh ra và Thủ-đà-la từ chân Phạm thiên sinh
ra.
1. Bà-la-môn
(brāhmaṇa): Là tầng lớp cao nhất trong xã hội, có nhiệm vụ cố vấn cho
quốc vương và lo việc cầu nguyện, tế tự. Họ lợi dụng thế lực tôn giáo để kiểm
soát và điều hành thế giới tinh thần con người.
2. Sát-đế-lợi
(kṣatriya): Bao gồm vương tộc, hoàng thân, thủ lĩnh và dũng sĩ các nước
nhỏ. Quyền thống trị của một quốc gia do đẳng cấp Sát-đế-lợi nắm giữ. Nhưng
trong kinh Phật thì phần nhiều cho
Sát-đế-lợi
nằm ở
địa vị thứ nhất, tức trên
đẳng cấp
Bà-la-môn.
3. Phệ-xá (vaiśya):
Bao gồm thợ thủ công, thương nhân, nông dân, người chăn nuôi...
Chủng tính
này phải nộp thuế cho tầng lớp vua chúa, quý tộc. Tuyệt đại bộ phận trong số họ
là những người bị bóc lột và bị áp bức.
4. Thủ-đà-la
(śūdra): Bao gồm những người tiện dân và nô lệ, là thành phần thấp bé
chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội.
Mỗi chủng
tính hoạt động độc lập, theo chế độ nội hôn, là một tập thể người cùng chung họ
hàng, nghề nghiệp truyền đời nhau. Ai sinh trong chủng tính nào thì được hưởng
thân phận của chủng tính ấy như là yếu tố mặc khải
của kinh Vệ-đà.
Giai cấp đứng đầu bốn chủng
tính Ấn Độ lúc bấy giờ là Bà-la-môn. Bà-la-môn có nghĩa là thanh tịnh, thuần
khiết hoặc thần thánh. Đây là giai cấp không những nắm quyền lực về tôn giáo, mà
còn là giai cấp có
đặc quyền cố vấn cho
quốc vương trong xã hội. Trên thực tế, người nắm quyền bính chính trị và quân sự
là giai cấp Sát-đế-lợi. Đối với nền chính trị lúc này, một mặt, Sát-đế-lợi bắt
buộc dân chúng cấp dưới thi hành chính sách của mình đặt ra; nhưng mặt khác, Sát-đế-lợi
phải tuân hành giáo quyền của giai cấp Bà-la-môn áp đặt. Cho nên Sát-đế-lợi là
giai cấp trung gian nằm giữa Bà-la-môn và tầng lớp thợ thuyền,
buôn bán,
công
nghệ,
nông dân.
Thái tử Tất-đạt-đa sinh ra
trong chủng tính này.
Trong khi tầng lớp vương
tộc phát động chiến tranh thì thành viên trong giai cấp tế tự Bà-la-môn không
thể không thực thi công tác thực dân. Lúc bấy giờ, nông nghiệp và chăn nuôi quả
là cần thiết, tầng lớp thương nhân buôn bán cũng không thể thiếu trong xã hội
chủng tính Ấn Độ. Họ
thuộc tầng lớp lao động
bình dân, gọi là Phệ-xá.
Chủng tính này vừa
tuân theo mệnh lệnh tôn giáo của Bà-la-môn vừa
bị chi phối
bởi
nền chính trị của
Sát-đế lợi.
Theo Áo
nghĩa thư thì chủng tính Thủ-đà-la bị ba chủng tính trên cô lập. Ba chủng
tính đầu có quyền tụng kinh Vệ-đà và quyền tự do tế tự. Đến một lứa tuổi
nào đó thích hợp, họ có thể xuất gia làm Sa-môn để thực hiện đời sống tôn giáo;
còn chủng tính Thủ-đà-la không có quyền như vậy, họ chỉ được đọc thơ tự sự trong
văn học dân gian và tục ngữ để được chút niềm vui thay cho tôn giáo của họ mà
thôi. Thậm chí họ không được quyền ngước nhìn vào
mặt những
người
Bà-la-môn,
vì như vậy Bà-la-môn sẽ bị ô uế.
Chứng kiến bao cảnh bất
công tồn tại cố hữu trong xã hội Ấn Độ do chế độ chủng tính mang lại và những
mâu thuẫn từ các quốc gia láng giềng xâm chiếm, đánh phá nhau, Thái tử
Tất-đạt-đa kiên quyết tìm cho mình một hướng đi giải
thoát thực sự. Sau khi thành đạo, Đức Phật phá bỏ ranh giới phân biệt
đẳng cấp xã hội và làm cuộc đại cách mạng tư tưởng để xóa tan sự bất công cố hữu
ấy. Ngài dùng tình thương để đối xử tử tế với tầng lớp nô lệ vốn bị ba đẳng cấp
trên miệt thị.
Đức Phật luôn
kiên trì lập trường của mình khi xem tất cả chúng sinh đều bình đẳng. Ngài thu
nạp những người có tâm nguyện tu tập giải thoát từ tất cả các tầng lớp xã hội,
mà không từ chối bất cứ đẳng cấp nào, dù là thương nhân, ngoại đạo, nô lệ hay
quý tộc, Bà-la-môn, quốc vương. Trong Tăng đoàn do Đức Phật thiết lập, Ngài hoàn
toàn không dựa theo chức nghiệp, thành phần xuất thân hoặc địa vị xã hội của họ
để đặt ra bất kỳ đặc quyền hay sự hạn chế nào. Ngài xóa bỏ tất cả những gì có
liên quan đến lễ nghi hoặc pháp lệnh chuyên chế phân biệt đẳng cấp xã hội. Chính
nhờ tinh thần bình đẳng không phân biệt này mà Đức Phật được đa số quần chúng
cung kính, đặc biệt là giai cấp hạ đẳng,
như
phụ nữ, người
nghèo khổ,
người
nô lệ bị áp
bức, chà đạp. Họ xem Đức Phật như là vị “Cứu thế” vĩ đại của nhân loại, giải
phóng mọi bất công
và đem lại tự
do cho con người.
Trong kinh
Tăng nhất A-hàm, Đức Thế Tôn đã dạy các Tỷ-kheo: “Nay có bốn con sông
lớn, nước từ nguồn A-nậu-đạt lưu xuất. Thế nào là bốn? Đó là sông Hằng, sông
Tân-đầu, sông Bà-xoa, sông Tư-đà. Nước sông Hằng kia từ Ngưu đầu khẩu chảy về
hướng Đông, sông Tân-đầu từ Sư tử khẩu chảy về hướng Nam, sông Tư-đà từ Tượng
khẩu chảy về hướng Tây, sông Bà-xoa từ Mã khẩu chảy về hướng Bắc. Bấy giờ, nước
bốn con sông lớn sau khi uốn quanh dòng A-nậu-đạt rồi, sông Hằng đổ vào biển
Đông, sông Tân-đầu đổ vào biển Nam, sông Bà-xoa đổ vào biển Tây, sông Tư-đà đổ
vào biển Bắc. Lúc ấy, bốn con sông lớn đổ vào biển rồi, không còn tên gọi trước
nữa, mà chỉ gọi là biển. Ở đây cũng vậy, có bốn chủng tính. Những gì là bốn? Đó
là Sát-lợi, Bà-la-môn, trưởng giả và cư sĩ.
Họ ở
chỗ Như Lai,
cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo thì không còn dòng họ cũ nữa, mà
chỉ gọi là Sa-môn đệ tử Thích-ca. Sở dĩ như vậy là vì đại chúng của Như Lai
giống như
biển lớn, bốn đế cũng như bốn con sông lớn, trừ bỏ kiết sử, vào thành
Niết-bàn vô úy. Cho nên, này các Tỷ-kheo! Các ngươi nếu có ai ở trong bốn chủng
tính, cạo bỏ râu tóc, với niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo, thì những người ấy
sẽ bỏ hết tên gọi trước đây, tự xưng là đệ tử Thích-ca. Sở dĩ như vậy là vì Ta
nay chính là con của họ Thích-ca, từ dòng họ Thích xuất gia học đạo. Tỷ-kheo nên
biết, muốn bàn về ý nghĩa của đứa con ruột, thì phải gọi là Sa-môn con dòng họ
Thích”.
Ở mọi nơi mọi lúc, Đức Phật
đều lấy nhân cách cao thượng của một bậc
thầy giác ngộ làm sự
nghiệp giáo hóa. Nhân cách cao thượng ấy được thể hiện ở việc tôn trọng tính
thiện lương
của con người mà bác bỏ tư tưởng ưu liệt về nhân chủng. Theo cái nhìn bình đẳng
của Đức Phật, nếu những người nô lệ được giáo dục đàng hoàng, biết tu dưỡng đạo
đức thì họ có khả năng trở thành những con người vĩ đại,
đáng cung kính.
Ngược lại, những kẻ tự cho mình là người cao quý được sinh ra trong giai cấp
vương tộc hay Bà-la-môn, nếu không được giáo dục chu đáo, không biết trau dồi
đức hạnh thì suốt đời cũng chỉ là những kẻ ngu si, vô trí, cống cao, ngã mạn mà
thôi. Khi đánh giá phẩm hạnh một
con
người,
cần phải nhìn nhận
về trí tuệ và đạo đức của họ chứ không thể xét họ thuộc vào thành phần chủng tộc
nào do xã hội quy định. Phàm
là người thì ai cũng có thể tự xây dựng cho mình một đời sống chân chính để trở
thành người có trí tuệ và đạo đức.
Việc xây dựng giáo đoàn bằng tinh
thần từ bi và bình đẳng đã công khai phản bác chế độ đẳng cấp theo định kiến của
xã hội Ấn Độ bấy giờ. Đức Phật tượng trưng bằng hình ảnh rất sống động khi lấy
nước trong trăm sông và nước trong biển lớn để thí dụ. Trăm sông khi đổ vào biển
cả đều mang một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy, dù cho bất kỳ ai ở vào bốn chủng
tính của xã hội, nếu xuất gia tu hành chân chính thì cũng đều thấm nhuần một vị,
đó là vị giải thoát. Không phải Đức Phật đưa ra vấn đề này để lý luận
suông
mà chính Ngài đã
triệt ngộ
và thực hành thuần thục tính bình đẳng trong cuộc sống hàng ngày đối với các
thầy Tỷ-kheo.
Đức Phật luôn nghĩ đến chúng sinh có
duyên lành được độ. Ai có duyên trước Ngài độ trước, ai có duyên sau
Ngài độ sau. Chẳng hạn, Ni-đề
vốn là một người nghèo khổ, thuộc giai cấp không thể tiếp xúc, hàng ngày sinh
sống bằng nghề gánh phân thuê, nhưng Đức Phật vẫn tiếp nhận và cho gia nhập giáo
đoàn. Ban đầu, do tâm lý tự ti mặc cảm nên Ni-đề không dám gặp mặt Đức Phật, vì
nghĩ rằng Đức Phật là dòng dõi hoàng tộc, các đệ tử Ngài là quý nhân, còn ông là
kẻ hạ tiện, hèn hạ. Nhưng bằng tấm lòng từ bi, Đức Phật thu nhận ông vào giáo
đoàn xuất gia tu học. Sau một thời gian
ngắn tinh tấn
tu tập, Ni-đề đã chứng đắc thần
thông.
Bấy giờ, rất nhiều người
thuộc chủng tính Bà-la-môn hoặc vua chúa phản đối những người hạ tiện được xuất
gia làm sa-môn, nhưng Đức
Phật vẫn kiên định lập trường bình đẳng của mình. Ngài luôn dùng thí dụ dễ hiểu
để ví cho lập trường này: “Pháp của ta thanh tịnh mầu nhiệm, cũng như nước
sạch có thể tẩy trừ được tất cả cấu uế, cũng như ngọn lửa lớn có thể thiêu cháy
mọi vật, dù vật lớn hay nhỏ, tốt hay xấu đều có thể cháy thành tro.
Pháp của ta cũng vậy, rộng lớn vô
biên, dù là người giàu hay nghèo, sang hay hèn, nam hay nữ, nếu ai có khả năng
tu tập thì đều dứt sạch hết các ham muốn”.
Ưu-ba-li vốn là một thợ cắt tóc trong
cung đình thuộc chủng tộc Thủ-đà-la. Sau khi xuất gia, ông tinh thông giới luật,
là một vị trì luật đệ nhất trong mười đệ tử
lớn của
Đức Phật. Ưu-ba-li
cũng
là người trùng tuyên Luật tạng trong
lần thứ nhất kết tập kinh điển.
Cô gái Bát-cát-đế thuộc dân hạ tiện
Ma-đăng-già tự nhận mình
là
hạng người không thể tiếp xúc, nên
không dám dâng nước cúng dường A-nan. A-nan mang giáo lý bình đẳng của Đức Thế
Tôn ra thuyết giảng thì cô ta mới dám hiến cúng. Trong kinh Lăng nghiêm
thường cho nhân duyên gặp gỡ và tiếp xúc này là màn kịch luyến ái phát xuất từ
dục tâm của
Bát-cát-đế. Cuối cùng,
Bát-cát-đế cũng xuất gia làm Tỷ-kheo
ni, chứng đắc quả vị A-la-hán.
Sở dĩ Đức Phật phủ nhận hoàn toàn
phẩm giá hạ tiện của giai cấp nô lệ đã được định
hình
trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, là vì Ngài lấy nhân cách làm trung tâm để xây
dựng nên quan điểm bình đẳng nhất như giữa chúng sinh và Phật, như trong kinh
Hoa nghiêm dạy: “Tâm, Phật và chúng sanh, ba
thứ
không sai biệt”.
Có thể nói, quan điểm này không hề có trong tư tưởng xã hội Ấn Độ trước đây.
Đức Phật
đưa ra quan điểm bình đẳng để thức tỉnh tính tự giác của mỗi
con
người,
vì ai ai cũng có khả năng trau dồi trí tuệ và đạo đức.
Người nào chưa có tự do tín ngưỡng tôn giáo thì giờ đây có quyền tín ngưỡng tôn
giáo, người nào chưa có tự do học hành thì giờ
đây
có quyền học hành như bao nhiêu người ở giai cấp khác. Đây là chủ nghĩa
nhân
văn, chủ nghĩa bình
đẳng trong giáo lý của Đức Phật. Tinh thần này được Đức Thế Tôn vận dụng trong
đời sống hòa hợp của giáo đoàn.
Từ những thành tựu an lạc, hòa hợp, giải thoát của Tăng đoàn do
Đức
Phật hướng dẫn, mọi giai tầng xã hội đã nhìn thấy những giá trị con người mà lâu
nay chế độ chủng tính đã phớt lờ hoặc phủ nhận.
Tinh thần bình đẳng của
Đức
Phật đã vượt lên trên các định chế của xã hội để mang lại hạnh phúc, tự do cho
mọi người, dù họ sinh trong giai cấp bình dân hay quý tộc. Tất cả con người sinh
ra trên đời này đều mang dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn nên không thể nói
giai cấp này cao hơn giai cấp kia, hay chủng tính kia thấp hơn chủng tính nọ từ
nơi xuất phát. Tất cả mọi người đều bình đẳng về quả báo của các hành nghiệp
thiện hoặc ác, bình đẳng về quyền lợi được thụ hưởng tất cả những giá trị phổ
quát của con người. Sở dĩ có sự phân chia giai cấp quý tiện trong xã hội Ấn Độ
lúc ấy là do tầng lớp Bà-la-môn tự cho mình có đặc quyền sinh sát trong tay, bắt
buộc những người khác phải phục tùng vô điều kiện.
Thuyết bình đẳng của
Đức
Phật đã phản bác
những bất công của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ và còn mang giá trị nhân văn cho đến
hôm nay. Con người thông minh hay ngu độn, cao quý hay thấp hèn là do hành
nghiệp của họ chứ không phải do nơi chủng tính họ sinh ra,
như
Đức
Phật trả lời người Bà-la-môn thờ lửa Bà-la-đọa-xà trong kinh Tiện dân: “Chẳng
phải nơi sinh ra là tiện dân, cũng chẳng phải nơi sinh ra là Bà-la-môn, bởi do
hành vi mà con người trở thành tiện dân, và cũng do hành vi mà con người trở
thành Bà-la-môn”.