Nói về Thần hộ tự
noi ve than ho tu
NÓI VỀ THẦN HỘ TỰ
Huỳnh Thanh Bình
Khác với những ngôi chùa của Phật giáo Nam truyền thần hộ tự thường là các Yasha/Dạ-xoa/Chằn,
ở các chùa Bắc truyền thần hộ tự có khác.
Dvarapala hoặc Dvarapalaka (tiếng
Phạn có nghĩa “người canh gác cửa/cổng”; IAST/chữ Phạn phiên âm Latinh: Dvarapala):
vị hộ môn thần thường được thể hiện như là một chiến binh hoặc người khổng lồ
đáng sợ, với một thứ vũ khí - phổ biến nhất là gada (chùy). Những bức
tượng dvarapala là một thành tố kiến
trúc phổ
biến rộng khắp các nền văn hóa Hindu, Phật giáo và Kỳ-na giáo, cũng như trong
các khu vực chịu ảnh hưởng...
Trong hầu hết các ngôn ngữ Đông Nam Á (bao gồm Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam,
Khmer và Java), những hình tượng bảo hộ này được đề cập như dvarapala. Tiếng
Phạn dvara có nghĩa là “cổng” hoặc “cửa” và pala có nghĩa là
“người canh gác” hoặc “người bảo vệ”.
Tên gọi có liên quan ở Indonesia và Malaysia là dwarapala. Những hộ môn
thần này trong các ngôn ngữ khác ở vùng phía bắc châu Á là Kongorikishi hoặc Niō trong tiếng
Nhật, Heng Ha Er Jiang trong tiếng Trung Hoa và Narayeongeumgang/Geumgangmun trong
tiếng Hàn.
Các bức tượng hộ thần này theo truyền thống thường được đặt bên ngoài các ngôi
chùa Phật giáo hoặc đền thờ Hindu giáo, cũng như trong các kiến trúc khác như cung
điện hoàng gia, để bảo vệ những nơi chốn thiêng liêng bên trong.
Tùy thuộc vào kích thước và sự giàu có của ngôi đền, những hộ môn thần này có
thể được đặt đơn lẻ, theo cặp hoặc trong các nhóm lớn hơn. Các kiến trúc nhỏ hơn
có thể chỉ có duy nhất một bức tượng dvarapala. Thường có một cặp tượng
được đặt ở hai bên ngưỡng cửa nơi đền thờ. Một số địa điểm lớn hơn có thể có bốn
(lokapalas/Hộ thế, người bảo hộ bốn phương), tám hoặc 12. Đặc biệt trong
các cung điện hoàng gia ở Java (kraton) ở một số trường hợp, chỉ có khuôn
mặt hoặc đầu của vị hộ thần này được thể hiện[1].
1.
Hộ Môn Thần (Phạn: Dvarapala) hay còn gọi là Nhân Vương Môn, Nhị Vương
Môn, Nhị Vương Tôn, Nhị Thiên Vương, Nhị Thiên, Nhân Vương… là để chỉ hai vị lực
sĩ Kim Cang được phân chia giữ gìn hai bên cửa chùa, thủ hộ già-lam. Vị bên trái
là Mật Tích Kim Cang, còn vị bên phải là Na La Diên Kim Cang. Cả hai vị đều quấn
mảnh vải quanh co, gân cốt nổi lên, tóc búi, mắt trừng. Vị bên trái há miệng,
tay phải cầm chày, bàn tay trái giương ra phía trước. Vị bên phải ngậm miệng,
tay trái cầm gậy, tay phải giương cao.
Từ xưa, ở Ấn Độ đã có phong tục an trí chư thiên và thần Dược-xoa ở cửa chùa để
thủ hộ già-lam. Di tích hiện còn của lối kiến trúc này ở cửa tháp xứ Bharhut, Ấn
Độ. Theo Hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự 17, Phật dạy Trưởng giả Cấp Cô Độc nện
tạo tượng Dọa-xoa cầm gậy đứng ở 2 bên cửa.
2.
Ở Nhật Bản, Nhân Vương được gọi là Nio hay Kongorikishi, là
hai vị hộ thần có phẫn nộ tướng và thân hình vạm vỡ của Đức Phật mà ngày nay
thấy tại lối vào của nhiều ngôi chùa Phật ở vùng Đông Á trong dạng thức giống
với hình tượng những kẻ đô vật đáng sợ. Họ là những biểu thị hộ pháp/dharmapala
của vị Vajrapani/Kim Cương Thủ Bồ-tát, có mặt lâu đời và quyền uy nhất trong hệ
thống chư thần Phật giáo Đại thừa. Theo truyền thống Nhật Bản, họ đã du hành
cùng với Đức Phật Gautama để bảo vệ Ngài và những đề cập về điều này thấy thể
hiện trong kinh tạng Pāli, ví dụ như trong kinh A-ma-trú/Ambattha
Sutta. Theo truyền
thống hòa bình nói chung của Phật giáo, câu chuyện về các vị hộ pháp đã biện
minh cho việc sử dụng sức mạnh thể chất để bảo vệ các giá trị và niềm tin của
thiện pháp chống lại điều xấu, cái ác. Niō cũng được xem như là một biểu thị của Mahasthamaprapta/Đại
Thế Chí, vị Bồ-tát quyền năng đứng bên cạnh Phật A Di Đà/
Amitabha trong Phật giáo Tịnh độ và như Kim Cương Tát Đỏa trong Phật giáo Tây
Tạng.[2]
Kongorikishi thường
được biểu thị một cặp tượng đứng hai bên dưới cánh cổng lối vào một ngôi chùa
riêng biệt thường được gọi là Niomon/Nhân Vương môn tại Nhật Bản,
Hengha Er Jiang (哼哈二將)
ở Trung Quốc, và Geumgangmun tại Hàn Quốc. Bức tượng bên phải được
gọi là Misshaku Kongo, há miệng, biểu thị cách phát âm tự vị đầu tiên của
Phạn ngữ Devanāgarī là “a”. Bức tượng bên trái được
gọi là Naraen Kongo, ngậm miệng, biểu thị cho việc phát âm tự vị cuối
cùng của Devanāgarī là “hum”. Hai ký tự này đi cùng với nhau (a-hum/a-un)
biểu trưng cho sự sinh và tử của vạn vật. (Con người được cho là khi sinh ra nói
âm “a” với chiếc miệng mở và chết đi phát âm “hum” và ngậm miệng). Tương
tự như Alpha và Omega trong Cơ Đốc giáo, chúng biểu thị “mọi thứ” hoặc “tất cả
tạo vật”. Sự rút gọn của cả hai từ là Aum, từ tiếng Phạn để chỉ cho sự tuyệt
đối/hoàn toàn.
Họ được đặt hai bên cổng chính của các tự viện và đền chùa để xua đuổi các tà
linh, bọn trộm cắp, và bảo vệ trẻ con. Một tín ngưỡng rất phổ biến ở châu Á yêu
cầu người ta ném những quả cầu nhỏ bằng giấy bồi vào các tượng này trong khi
thốt lên một ước nguyện; nếu như quả cầu dính vào đó một khoảng thời gian, thì
ước nguyện kia coi như được chấp thuận. Điều đó cũng được thực hiện với những
tượng thần khác (ở Nhật với các tượng như Binzuru Sonja, Fujin và Raijin, thần
gió và thần sấm sét theo Thần đạo), và những thần giữ cửa cho các ngôi đền Thần
đạo gọi là Zuishin (hoặc Yadajin), đại diện cho các vị binh bộ thượng thư đời
xưa.
Các Nhân Vương được biểu thị như là những người khổng lồ cơ bắp cuồn cuộn, bán
khỏa thân ở phần trên hay giáp trụ phủ kín, đầu trọc, đôi khi có búi tóc củ hành
trên đỉnh đầu, vẻ mặt đầy hăm dọa. Họ đứng thẳng trên các tảng đá, hai chân dạng
ra.[3]
Misshaku Kongo
hay
Shu-misshaku-shin Kongo-o
cũng được gọi là Misshaku Rikishi
hoặc Agyo, dạng thức “a”,
thuật ngữ mở miệng của các tượng trong cặp từ aum, là một biểu tượng của
bạo lực công khai: thần cầm một chiếc vồ kim cương “vajra-pani”
(chiếc dùi cui kim cương, chùy kim cương hoặc biểu tượng mặt trời)[4] và
nhe răng. Miệng của thần được miêu tả là có hình dạng cần thiết để tạo thành
dạng thức âm “ah”, dẫn đến tên gọi lần lượt của thần, “Agyo”. Misshaku Kongo là Miljeok
geumgang trong tiếng Hàn, Miji Jingang (密迹金剛)
trong tiếng Trung, và Mật
Tích Kim Cương
hay
Mật Tích Lực Sĩ
trong tiếng Việt. Tương đương với Guhyapada vajra/Garbhavira
trong tiếng Phạn.
Thần là người bảo vệ cho Thai tạng giới mạn-đà-la, và tượng trưng quyền lực nó
biểu hiện, quyền lực công truyền. Miệng thần mở rộng, thân hình màu đỏ. Thần
luôn luôn được đặt ở phía Đông của Tam môn quan, phía tay phải khi ta đi từ
ngoài vào. Dáng điệu thần rất sinh động: tay phải thấp xuống, các ngón tay duỗi
ra, bàn tay trái nắm chặt một trường côn, hai đầu đều có kim cương chử ba mũi
nhọn sắc. Còn khi mang giáp trụ, tay phải thần cầm một đinh ba, hoặc một đoản
kiếm. Tóc được kết thành một búi trên đỉnh đầu.
Naraen Kongo hay Shu-kongo-shin-o cũng được gọi là Ungyo,
dạng thức “um”, dạng thuật ngữ nói chung cho các tượng ngậm miệng trong
cặp đôi aum) trong tiếng Nhật, được thể hiện tay không hoặc cầm
kiếm. Thần tượng trưng cho sức mạnh tiềm tàng, ngậm chặt miệng. Miệng của thần
được biểu hiện để tạo thành âm “hum” hoặc “un”, dẫn đến tên gọi
của thần lần lượt “Ungyo”. Naraen Kongo là Narayeon geumgang trong
tiếng Hàn, Naluoyan Jingang (那羅延金剛)
trong tiếng Trung, và Na La Diên Kim Cương hay Kim Cương Lực Sĩ
(Phạn: Vajravira) trong tiếng Việt.
Thần được thấy ở phía Tây (bên trái) Tam môn quan (khi ta đi từ ngoài vào) và là
người bảo vệ cho Kim cương giới mạn-đà-la, tượng trưng sức mạnh tiềm tàng của
giáo lý mật truyền. Tương tự như Garbhavira, nhưng thân hình của thần có
màu xanh dương và miệng khép lại. Tay trái hạ thấp xuống, nắm lại, và tay phải
cầm một trường côn mỗi đầu tận cùng bằng kim cương chử. Khi mang giáp trụ, tay
phải thần cầm đinh ba hay đoản kiếm. Tóc tết thành búi trên đỉnh đầu. Thần được
cho là một trong những hình tướng của Acalanatha (Bất động Minh vương).
Một biểu thị của Kongorikishi là sự kết hợp giữa Naraen và Misshaku
Kongo tạo nên hình tượng là Shukongoshin tại chùa Đông Đại
(Todai-ji) ở Nara, Nhật Bản. Shukongoshin, nghĩa đen là “vị thần nắm giữ
kim cương”, là Shukongoshin hoặc Shikkongojin trong tiếng
Nhật, Jip geumgang sin trong tiếng Hàn, Zhi
jingang shen
(執金剛神)
trong tiếng Trung, và Chấp Kim Cang thần trong tiếng Việt.
Kongorikishi
là một trường hợp có thể do sự chuyển giao hình ảnh của người anh hùng Hy
Lạp Heracles đến Đông Á theo Con đường tơ lụa. Heracles được sử dụng trong nghệ
thuật Phật giáo thời kỳ Hy Lạp hóa để biểu trưng cho Vajrapani/Kim Cương Thủ
Bồ-tát, người bảo hộ của Đức Phật và biểu trưng về thần sau đó được sử dụng
ở Trung Quốc và Nhật Bản để miêu tả cho các vị thần bảo hộ các ngôi chùa Phật
giáo. Sự chuyển hóa này là một phần của hiện tượng thuyết hổ lốn Phật giáo thời
kỳ Hy Lạp hóa rộng lớn hơn, nơi Phật giáo tương tác với văn hóa cổ Hy Lạp của
Trung Á từ thế kỷ thứ IV trước TL đến thế kỷ thứ IV TL.[5]
Thiền Niō (Nhân vương,
仁王)
là một phép tu tập được chủ trương bởi Thiền sư Suzuki Shosan (1579-1655), người
đã xem Thiền Niō vượt trội hơn Thiền Nyorai (Như Lai,
如来). Ông
gửi gắm đến người tu tập nên thiền quán về Niō
và thậm chí kế thừa các biểu hiện hung dữ và tư thế chiến đấu quyết liệt để tu
dưỡng nội lực, sức mạnh và lòng can đảm khi đối phó với nghịch cảnh.[6] Suzuki
miêu tả Niō như sau: “Nio (Vajrapani/Kim Cương Thủ Bồ-tát) là một
vị Thần trấn giữ. Thần cầm kongosho (vajra/kim cương chử) và Thần
có thể đè bẹp kẻ thù. Tin tưởng Thần, cầu khấn Thần sẽ có được sự bảo hộ của
Thần cũng như Thần bảo hộ cho Đức Phật. Thần chuyển động với năng lượng và sức
mạnh tinh thần mà bạn có thể hấp thụ từ Thần vào những lúc cần thiết”.
3.
Ở Trung Quốc, thường thì cổng chính của ngôi chùa đều có 3 cửa đứng cạnh nhau.
Chính giữa là cửa chính, to và cao nhất, hai bên có 2 cửa nhỏ, do đó cổng chính
được gọi là “điện Tam Môn” hay “Tam Quan”. Ở Trung Quốc và nhiều nước, vì chùa
phần lớn được xây ở trên núi (các núi nổi tiếng đều có sư đến tu) nên cổng chính
cũng được gọi là “điện Sơn Môn”. Bên trong “điện Sơn Môn”, ở 2 bên cửa phụ có
tượng của 2 vị Kim Cang. Hai vị Kim Cang này có hình dáng của lực sĩ quỷ hình,
cao hơn 2 trượng (khoảng 7m), dáng vẻ oai phong lẫm liệt trông rất sợ, là các vị
thần gác cổng chùa miếu rất nghiêm túc.
Một thuyết nói rằng, hai vị Kim Cang này là thần Dạ-xoa tay cầm chùy Kim Cang
(một loại binh khí bền, tốt nhất của Ấn Độ cổ đại) bảo vệ Phật, do đó các thần
đó còn được gọi là “Chấp Kim Cang”. Theo truyền thuyết, Phật (Thích Ca) thường
có 500 vị tay cầm chùy Kim Cang đi theo bảo vệ. Người quan trọng nhất trong số
500 vị đó là “Mật Tích Kim Cang”, là đội trưởng của đội này. Mật Tích Kim
Cang còn được gọi là Kim Cương Mật Tích, Mật Tích Lực Sĩ, Bí Mật Chủ, đứng vào
hàng ngũ của hai mươi vị thần Hộ Pháp của Phật giáo. Mật Tích Kim Cang có vị trí
thứ bảy trong Nhị thập chư thiên.
Mật Tích Kim Cương lực sĩ hội
(quyển 8) của kinh Đại Bảo Tích có chép: Mật Tích Kim Cương ban đầu vốn
là vương tử Pháp Ý, sau khi ông phát thệ quy y Phật pháp đã trở thành “Kim Cương
Lực Sĩ, thường xuyên ở bên cạnh Phật”, hầu cận Phật, muốn được nghe hết tất cả
những việc mật tích mật yếu của chư Phật, nên được gọi là “Mật Tích Kim Cương”.
Ý nghĩa là biết được những mật tích, mật yếu của Phật. Ngài nhận trọng trách
đứng gác ở cổng chính của chùa.
Còn có một thuyết khác rằng: Theo Chánh pháp niệm kinh, xa xưa, phu nhân
của quốc vương sinh được 1.000 cậu con trai, họ đều trở thành Phật. Những vị
Phật như Thích Ca, Thanh Diệp Kế, Lâu Trí Đức đều là con của phu nhân đó. Phu
nhân thứ hai của quốc vương lại sinh được 2.000 cậu con trai, người con cả phát
nguyện làm vua, mời cả nghìn người anh “truyền pháp luân” (truyền Phật pháp).
Người con thứ hai phát nguyện làm thần “Mật Tích Kim Cang”, bảo vệ 1.000 người
anh truyền bá Phật pháp, vì vậy cổng của các ngôi chùa đều đặt tượng vị này.
Theo sách Nhập Thục ký của tác giả Lục Du thời Tống thì hai vị Kim Cang
này chính là hai anh em út trong số 1.000 vị Phật: Thanh Diệp Kế Như Lai và Lâu
Trí Đức Như Lai.
Với vai trò là thần giữ gìn và bảo hộ cho Phật, trong các ngôi chùa, Mật Tích
Kim Cương được bố trí đặt tại bên trong điện Sơn Môn, tay cầm chày Kim Cương bảo
vệ và giữ gìn cho ngôi chùa. Với tư cách là “thần giữ cửa”, giữ gìn bảo vệ đại
môn của ngôi chùa, Mật Tích Kim Cương ban đầu vốn chỉ là một người. Điều này có
đôi chút không được hài hòa đối với đặc điểm kiến trúc mang tính đối xứng của
những ngôi chùa, đồng thời cũng không phù hợp với thói quen tư duy thích trau
chuốt đối xứng của người Trung Quốc, bởi vậy cho nên họ bèn thêm vào đó một
người nữa, cũng có thể nói Mật Tích Kim Cương đã biến thành hai người. Mới đầu,
vị Kim Cương được tăng thêm gọi là “Na La Diên Phu”, cũng bắt nguồn từ Ấn
Độ cổ giáo. Ông được bố trí đặt ở bên phải của điện Sơn Môn, gọi là “Hữu bật
Kim Cương” (vị Kim Cương phụ giúp ở bên phải), còn vị đứng ở bên trái gọi là
“Tả Phù Mật Tích” (vị Mật Tích phù hộ ở bên trái).
Hình tượng của “Na La Diên Phu” là cưỡi chim cánh vàng, mình có tám cánh
tay, mỗi cánh tay cầm một thứ vũ khí khác nhau. Nếu đem phối hợp với “Tả Phù
Mật Tích” chỉ có hai cánh tay, cầm chày kim cương ở bên trái thì không được
nhịp nhàng cho lắm, cho nên phải thay đổi “Na La Diên Phu”.
Đại Nhật kinh,
phẩm Chân ngôn tạng
có nói: Đứng đối nhau là hai pho tượng vương giả, một vị là “Nan Thắng Kim
Cương” còn vị kia là “Đối Diện Kim Cương” cùng cầm chày. Kim quang
minh kinh văn cú do Tăng nhân đời Đường chú giải còn nói trực tiếp hơn, rằng
Kim Cương Lực Sĩ chỉ có một người. Bấy giờ trong các ngôi chùa đều có đắp hai
pho tượng, chính là sự biến đổi để thích ứng với hoàn cảnh bên ngoài. Do vậy,
người ta đã biến Mật Tích Kim Cương thành ra hai vị Kim Cương đối xứng nhau.
Hiện nay trong Sơn Môn của các ngôi chùa chúng ta thấy có hai pho tượng Kim
Cương ở hai bên phải trái; tượng bên phải mím môi phẫn nộ, tượng bên trái há
miệng trừng mắt giận dữ. Theo như cách nói của giới Phật giáo, vị Kim Cương há
miệng kêu lên tiếng “A”, còn vị Kim Cương mím môi hừ lên một tiếng “Hong”,
hai âm tiết này của hai chữ cái mở đầu và kết thúc trong bảng chữ cái tiếng
Phạn. Cách phát âm của chúng là mở miệng và mím miệng, chính là cơ sở cơ bản
nhất của tất cả các ngôn ngữ, đại biểu cho toàn bộ sự sâu xa vi diệu của kinh
Phật tiếng Phạn.
Nhưng mọi người phần nhiều không hiểu điều này mà cứ quen gọi 2 vị này là “Hai
tướng Hanh-Cáp/Hanh-Ha” (Ông Thiện-Ông Ác). Cách gọi này bắt nguồn từ tiểu
thuyết thần ma thời Minh tên là Phong thần diễn nghĩa.
Sacgs Phong thần diễn nghĩa nói rằng, “Hai tướng Hanh-Cáp”: Một người tên
là Trịnh Luận, một người tên là Trần Kỳ. “Tướng Hanh” Trịnh Luận vốn là thượng
tướng quân quản lý lương thực của Thương Trụ Vương (bạo chúa thời Thương-Ân),
suy tôn Chân Nhân Tây Côn Luân Độ Ách làm thầy. Chân Nhân Độ Ách truyền cho
Trịnh Luân cách lấy trộm “trung nhị khí”. Khi gặp kẻ địch chỉ cần hắt hơi một
tiếng, tiếng hắt hơi vang to như tiếng chuông lớn, đồng thời phóng ra hai tia
sáng, hút hồn phách của người. Thời kỳ nhà Chu đánh nhà Trụ, mỗi lần xung trận
Trịnh Luân thường giành thắng lợi nhờ có “tuyệt chiêu” hắt hơi này. Về sau,
Trịnh Luân bị một tướng của nhà Chu là Trịnh Cửu Công bắt làm tù binh, sau đó
đầu hàng Chu Vũ Vương, lại được phong làm quan Đô Lương (quản lý lương thảo) và
Trịnh Luân vẫn luôn giành thắng lợi nhờ vào tài hắt hơi. Về sau Trịnh Luân giao
chiến với một đại tướng của nhà Thương là Kim Đại Thắng. Kim Đại Thắng vốn là
một kẻ gian ngoa quỷ quyệt. Hắn luyện cho bụng hắn phồng to lên như cái trống,
từ bụng phát ra những tiếng kêu to như sấm, trong chốc lát đã đánh bại được
Trịnh Luân, vung đao chém Trịnh Luân hai nhát.
“Tướng Cáp/Ha” Trần Kỳ cũng là quan Đô Lương (quản lý lương thảo) của Thương Trụ
Vương, được người ta truyền cho mật thuật, nuôi dưỡng và tu luyện mật thuật đó
đến khi trong bụng có một luồng khí màu vàng. Khi há miệng hà hơi, khí vàng đó
cũng phun ra, ai nhìn thấy thế quỷ phách đều tan biến. Trần Kỳ cũng đã từng giao
chiến với tướng của nhà Chu và cũng thường giành thắng lợi nhờ có tuyệt chiêu
thổi ra khí màu vàng. Về sau “Tướng Cáp” Trần Kỳ cũng giao chiến với “Tướng
Hanh” Trịnh Luân (lúc này đã hàng nhà Chu. Một vị thì hai lỗ mũi phát ra hai tia
sáng trắng, một vị thì miệng phun ra luồng khí vàng. Một vị thì “hắt hơi” và một
vị thì “phun hơi”. Hai vị giao chiến bất phân thắng bại, đúng là “hai thần gặp
nhau mỗi người một pháp thuật, hai tướng Hanh Cáp khoe thần thông”. Về sau Trần
Kỳ bị Na Tra đánh bị thương một bên vai, sau đó lại bị Hoàng Phi Hổ đâm cho một
nhát thương rồi chết.
Sau khi nhà Chu diệt nhà Thương, Khương Tử Nha về nước phong thần, ra sắc lệnh
đặc biệt phong hai tướng Trịnh Luân, Trần Kỳ “bảo vệ Tây Thích Môn (chùa) mở
mang giáo hóa, bảo hộ Pháp bảo, đó chính là thần ‘Hai tướng Hanh-Cáp’”.
Một số ngôi chùa căn cứ vào đó để đặt tượng hai thần tướng Hanh-Cáp ở cổng chùa.
Ngày nay vẫn còn kiểu bày biện như thế này, rất được sự hoan nghênh của nhân
dân. Nhưng trong kinh điển của Phật giáo không hề có cái tên “Hai tướng
Hanh-Cáp” này
[7].
4.
Ở Việt Nam, một hiện tượng phổ biến khác là một số tự viện thờ cặp đôi Hộ Pháp:
hoặc cặp đôi có hình tướng hệt như nhau, ngồi trên sư tử (phổ biến ở chùa miền
Bắc); hoặc cặp đôi đứng (hoặc một trẻ một già, hoặc một hiền một dữ, hoặc một
mặt trắng một mặt đen, hoặc một mặt trắng và một mặt đỏ - tục gọi “Ông Thiện-Ông
Ác”.
Trường hợp cặp đôi mặt trắng-mặt đỏ, là sự tích hợp thờ thần Hộ Pháp với Quan
Công/Già Lam Thánh Chúng. Còn trường hợp cặp đôi già-trẻ (có râu và không râu),
mặt đen/mặt trắng, hiền/dữ… có lẽ bắt nguồn từ truyền thuyết về anh em Skanda
(Vi Đà Thiên) và Ganesha (Hoan Hỷ Thiên). Theo ghi chép trong Đại Thánh Hoan
Hỷ Thiên cúng dường pháp do Đại sư Thiện Vô Úy (Subhakarasimha) đời Đường
phiên dịch: Thần Siva (Đại Tự Tại Thiên) có 3.000 người con, bên trái có 1.500
người, đứng đầu là Vinayaka (tức Hoan Hỷ Thiên), thường làm nhiều việc ác, gây
chướng ngại cho chúng sinh; bên phải có 1.500 người, đứng đầu là Senayaka (tức
Trì Thiện Thiên), chuyên làm việc thiện. Senayaka chính là hóa thân của Quan Âm
Bồ-tát, để thay đổi tính ác của Vinayaka, mới đầu thai làm bạn đời của thần tài
Đầu Voi, nhằm hóa độ thần Đầu Voi theo về với pháp Phật. Đó chính là nguồn gốc
của hình tượng thần tài Đầu Voi song tôn. Sau khi Thần Tài Đầu Voi được thu phục
và quy y Phật pháp, đã suất lĩnh 9.800 quỷ binh trấn giữ ba nghìn thế giới,
chuyên bảo vệ Tam bảo, thành tựu mọi việc thiện, tiêu trừ tai họa.[8]
Dữ liệu này cho phép đoán định rằng loại cặp đôi Hộ Pháp được thế tục tôn xưng
là “Ông Thiện-Ông Ác” là cặp đôi anh em Skanda/Vi Đà Thiên và Ganesha/Hoan Hỷ
Thiên. Skanda được coi là Trì Thiện Thiên và Ganesha vốn được coi là Vinayaka,
chủ tể của chướng ngại và cũng là vị thần xóa bỏ các chướng ngại.[9]
Chú thích:
1.
Bhattacharji, Sukumari (1998). Legends of Devi. Orient Blackswan,
tr.16.
2.
Gregor Maehle (2012). Ashtanga Yoga - The Intermediate Series:
Mythology, Anatomy, and Practice. Thư viện New World xb, tr.34.
1.
Richard Foltz (2010). Religions of the Silk Road.
2.
John Boardman (1994). The Diffusion of Classical Art in Antiquity.
Đại học Princeton xb.
3.
Jerry H.Bentley (1993). Old World Encounters. Cross-cultural contacts
and exchanges in pre-modern times. Đại học Oxford xb.
Chú thích hình:
N1 đến N7: Hộ Môn Thần Nio.
N8: Hộ Môn Thần Nio, chùa Futagoji, Kunisaki, Nhật Bản.
N9: Hai tướng Hanh-Cáp/Hanh-Ha.
N10: Hai tướng Hanh-Cáp/Hanh-Ha tại chùa Erwang, Đô Giang Yển, Tứ Xuyên,
Trung Quốc.
N11: Kartikeya và Ganesha.
[1]
Helena A.
van Bemmel (1994). Dvārapālas in Indonesia: temple guardians and
acculturation, CRC xb.
[2]
Helen Josephine Baroni
(2002). The illustrated encyclopedia of Zen Buddhism.
Rosen Pub Group xb,
tr.240.
[3]
Theo:
- Louis
Frederic, Phan Quang Định (dịch) (2005). Tranh tượng & thần phổ Phật
giáo. NXB.Mỹ Thuật, tr.378-380.
- Meher
McArthur. Tìm hiểu mỹ thuật Phật giáo. MXB.Mỹ Thuật, 2005,
tr.89-90.
- Thích
Minh Cảnh chủ biên. Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 6: NGH, NH,
O, PH; tr.4832, 4835, 5111-5112.
[4]
William Edward Soothill and Lewis Hodous (2000). A Dictionary of
Chinese Buddhist Terms.
Motilal Banarsidass xb.
[5]
Katsumi Tanabe (2003).
Alexander the Great, East-West cultural contacts from Greece to Japan.
NHK xb, tr.23.
[6]
Helen Josephine Baroni (2002). Sđd. tr.240.
[7]
Theo:
- Mã Thư
Điền (2002). Các vị thần trong Phật giáo Trung Quốc. NXB.Văn Hóa
Thông Tin, tr.622-627.
- Mạc Chấn
Lương (2009). Tạc tượng Phật & kiến trúc chùa. NXB.Mỹ Thuật,
tr.245-252.
[8]
Đại đức
Thích Minh Tông (2010). Phương pháp thờ Thần Tài Mật tông.
NXB.Tôn Giáo, tr.240-243.
[9]
Huỳnh
Thanh Bình. Từ Ganesha của Hindu đến Hoan Hỷ Thiên của nhà Phật,
Nguyệt san Giác Ngộ số 219, tháng 6/2014, tr.55-66.