Tín ngưỡng Bồ tát Quán Thế Âm trong lòng người dân Việt
v
TÍN NGƯỠNG BỒ-TÁT
QUÁN THẾ ÂM
TRONG
LÒNG NGƯỜI DÂN VIỆT
Thích Minh Lễ
Tín ngưỡng tôn giáo là một yếu tố văn hóa
có tính phổ biến,
có mặt
rất sớm trong lịch sử văn minh loài người. Trong đời sống của người dân Việt,
hình ảnh Quán Thế Âm đã ăn sâu vào
trong tâm khảm của nhiều người, được biểu
hiện
nơi
nhiều phương diện của đời sống, ở trong
những tác phẩm văn học và
trong
lĩnh vực nghệ thuật.
Nơi văn học và nghệ thuật, người
dân
Việt
đã xây dựng cho mình một hình ảnh Quán
Thế
Âm mang đậm sắc thái văn hóa của người dân Việt, gởi gắm vào đó những khát vọng,
niềm tin về một cuộc sống bình yên và hạnh phúc.
Trước khi bàn về tín ngưỡng Bồ-tát
Quán Thế Âm ở Việt Nam, xin sơ lược vài nét về sự hội nhập Phật giáo vào Việt
Nam.
Phật giáo, một tôn giáo
lớn
của phương Đông,
từ thung lũng sông Hằng
đã
truyền đến
nhiều nơi khác nhau trên thế giới: từ
Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, cho tới các nước
Trung Á,
Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam...
Giáo lý Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với đạo lý sống cổ truyền của dân tộc
Việt Nam,
vì
thế
nó
đã nhanh chóng
hòa
nhập
vào
văn hoá Việt Nam
sau khi được truyền vào.
Trong quá trình phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã có sự chuyển đổi và trở
thành Phật giáo Việt Nam
với
những nét đặc thù của dân tộc Việt,
có những điểm khác
với Phật giáo các nước khác.
Nói đến văn hóa của người Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến văn học
và nghệ thuật
dân gian. Bởi lẽ, văn học và nghệ thuật
dân gian
là hai bộ phận quan trọng đối với nền văn hóa dân tộc. Chúng được hình thành dựa
trên nền tảng văn hóa
bản địa
và tiếp thu có chọn lọc những
nền
văn hóa
khác.
Chúng như tấm gương phản chiếu một cách trung thực đời sống tinh thần, vật chất
của con người và xã hội
xa xưa.
Tín ngưỡng Bồ-tát
xuất hiện ở nước ta khá sớm.
Và người
Việt xưa đã khéo léo
đưa tín ngưỡng Bồ-tát nói chung và
tín ngưỡng Bồ-tát
Quán Thế Âm nói riêng vào trong những bài thơ ca, các tác phẩm văn
học,
các lễ hội,
và trong
các công trình điêu khắc nghệ thuật…
Trong thơ ca Việt
Nam,
hình ảnh Bồ-tát
Quán Thế Âm được nhắc đến như người mẹ hiền, với tấm lòng bao dung, ban vui cứu
khổ cho những đứa con đang
gặp
cảnh lầm than:
“Cha già là Phật Thích Ca
Mẹ già như thể Phật Bà Quan Âm.”
Hình ảnh Bồ-tát
Quán Thế Âm được nhắc đến trong câu ca dao trên cho thấy
rằng
cha ông ta từ ngàn xưa đã tôn thờ Ngài với một tấm lòng rất thành kính nhưng
cũng lại rất thân thiện, gần gũi, thân thương.
Bồ-tát,
Phật được ví như cha, mẹ chung mà chúng ta
cần
báo đền ân đức;
cần quy
ngưỡng, học tập, noi theo những phẩm hạnh cao quý
của họ.
Hình ảnh của
Bồ-tát Quán Thế Âm
đã
thấm nhuần
trong tâm trí
của nhiều
người Việt,
và
điều đó phản
ánh
tâm niệm và niềm tin của dân ta đối với
Ngài.
Không chỉ dừng lại ở thơ ca, hình ảnh
của
Ngài còn
in
sâu
nơi
các tác phẩm văn chương có giá trị.
Bên cạnh những
kinh
sách,
truyện cổ tích Phật giáo,
có hai tác phẩm
văn học
liên quan đến Bồ-tát
Quán Thế Âm
được truyền tụng
sâu
rộng
trong
dân gian, đó là
truyện
Quan Âm Nam Hải
và Quan Âm Thị Kính. Hai tác
phẩm chứa đựng
triết lý từ bi
của
nhà Phật, cùng với những tình tiết diễn ra đầy ly kỳ, hấp dẫn;
hàm chứa
tâm
hiếu,
tâm
bi,
lòng
nhẫn nhục, vị tha của Bồ-tát
Quán Thế Âm. Qua đó chúng ta nhận ra được mặt tích cực trong tư duy của cha ông
ta thuở xưa là ghét cái xấu và yêu thích, tôn vinh cái đẹp.
Ta có
thể bắt gặp một mô-tuýp
khá
quen thuộc trong các tác phẩm đó hình ảnh
Bồ-tát Quán Thế
Âm thị hiện như một bà
tiên
cứu thế, mang trong người tất cả những gì tinh hoa nhất, tốt đẹp nhất,
thiện lành
nhất để biểu trưng cho cái thiện, trừng phạt cái ác. Hình ảnh này nói lên niềm
khao khát của
người Việt thửa xưa,
đó chính là
mong
có một cuộc sống công bằng,
và
cũng thể hiện
niềm tin vào nhân quả: “Ở
hiền ắt sẽ gặp lành, ở ác ắt sẽ gặp dữ”.
Thông
qua
đó họ muốn truyền lại cho con cháu đời sau những thông điệp của tình thương và
bổn phận
làm người.
Bên cạnh những tác phẩm văn học
và
những câu ca dao, hình tượng
Quán Thế
Âm còn là nét đẹp văn hóa trong những ngày lễ truyền thống, những ngày cúng
viếng của dân tộc Việt Nam. Qua những chuyến nghiên cứu điền giả văn hóa dân
gian trong những dịp lễ hội, các học giả
đã
bắt gặp những hình tượng
Quán Thế Âm nơi
các
lễ hội.
Tuy
có sự biến tấu về hình thức cho phù hợp với văn hóa vùng miền, nhưng
tất cả đều mang
đặc điểm chung đó là thể hiện niềm tin vào
lòng
từ bi, cứu khổ cứu nạn, kết nối tình yêu thương giữa con người với con người.
Ngoài các ngày vía Bồ-tát
Quán Thế
Âm được tổ chức trong
chùa
như 19
tháng
2,
19
tháng
06,
và
19
tháng
09
(AL)
mà các tín đồ Phật giáo vẫn thường biết tới thì trong dân gian còn có rất nhiều
lễ hội
liên quan đến Bồ-tát
Quán Thế
Âm,
được biến tấu
tùy
vào
nhu cầu, ước muốn và mục đích của mỗi lễ hội. Điển hình như lễ hội Chùa Hương,
một lễ hội truyền thống của người Việt ta. Hình ảnh
Quán Thế
Âm hiện lên trong lễ hội là hình ảnh Phật Bà với những thần lực vi diệu mà dân
gian vẫn tương truyền rằng
chùa
Hương là chốn linh thiêng, năm xưa có Phật Bà
Quan
Âm hiện thân cứu khổ độ sinh. Hay những lễ hội cúng tế của các ngư dân biển.
Nhìn vào đây, ta có thể thấy
rằng
người dân Việt luôn tin tưởng vào Bồ-tát
Quan Âm,
đấng có thể che chở cho họ trong những lúc gặp nguy nạn.
Sự ảnh hưởng của Bồ-tát
Quan Thế Âm trong văn hóa người dân Việt còn được ghi nhận
nơi
các công trình kiến trúc mỹ thuật. Tại Việt Nam, hình ảnh Bồ-tát
Quán
Thế Âm được tạo dáng dưới
hình thức
một người nữ. Theo triết lý Phật giáo, Phật và Bồ-tát
thì không có nam hay nữ. Nhưng khi du nhập vào Việt Nam,
cũng như một vài nước khác, Bồ-tát
Quán Thế Âm đã hóa thành người nữ và
được ví như một người mẹ hiền.
Và dù
hình
thức bên ngoài của Bồ-tát Quán Thế Âm được tạo tác như thế nào,
thì
tất cả
đều toát lên vẽ đẹp uy
nghiêm và
từ
ái.
Có thể thấy rằng, hình ảnh Bồ-tát
Quán Thế Âm từ lâu đã trở nên quá quen thuộc trong đời sống văn hóa Việt. Ở khắp
nơi trên đất Việt, trải dài từ Bắc vào Nam, đâu đâu
ta cũng thấy
tôn tượng của vị
Bồ-tát
này. Ngài hiện diện trong tranh vẽ, trong văn chương điển tích lẫn trong ngôn
từ, và ngay cả trong các lễ hội, trong điêu khắc. Ngài là biểu tượng của người
mẹ hiền có tình yêu thương vô bờ bến và lòng khoan dung vô lượng. Người dân Việt
vốn từng sống trong cảnh chiến tranh ly loạn, tận mắt thấy sự
khổ đau do chiến tranh gây ra
và thường xuyên chứng kiến những thiên tai hạn hán,
vì
thế
họ
mơ ước có đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp và tin vào sự hộ trì của thần
linh. Do vậy, hình ảnh Bồ-tát
Quán Thế Âm
biểu trưng
cho lòng đại từ và sự cảm thông vô hạn dễ dàng bén rễ và phổ biến sâu rộng trong
quần chúng nhân dân.