Tư Tưởng Trung Đạo qua Bát Bất
Tư Tưởng Trung Đạo qua Bát Bất
Tư Tưởng Trung Đạo qua Bát Bất
Thích Nữ Vạn Huyền
Mở đầu Trung luận, Bồ-tát Long Thọ đã sử dùng Bát bất duyên khởi để hệ
thống hóa tư tưởng Tánh không trong kinh Bát-nhã. Từ cơ sở này, ngài phân
tích làm sáng tỏ hệ thống triết học của mình.
Mục tiêu của luận thuyết này là "phá tà hiển chánh", do đó, những nỗ lực
của Trung Luận là nhằm phê bình các quan điểm sai lầm của ngoại đạo và
ngay cả một số bộ phái Phật giáo như Độc Tử bộ, Hóa Địa Bộ và Hữu bộ. Ở bài viết
này, tác giả xin trình bày một vài điểm về Bát bất trong Trung luận.
1.
Bất sanh bất diệt
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái
gì đó có sanh và diệt. Trung Luận đã đề cập như sau:
Có người hỏi, vì sao tạo luận này. Đáp: “Có người cho rằng vạn vật từ
đại tự tại thiên sanh, có người nói từ (vĩ nữu) thiên sanh, có người nói từ hòa
hợp sanh, từng thời sanh, nói từ thể tánh sanh, nói từ tự nhiên sanh, hay nói từ
vi trần sanh….”.
Như vậy Bồ-tát Long Thọ đưa ra “bất sanh bất diệt” là để phá những kiến chấp
trên. Trong
Trung luận,
Long Thọ cho rằng:
“Các Pháp không tự sanh
Không từ cái khác sanh
Từ cả hai không nhân
Do vậy biết không sanh”.
Theo pháp Duyên khởi thì các pháp không có tự tánh. Tại vì không có tự tánh nên
tha tánh cũng không. Vì nhân tự tánh mới có tha tánh, nên nếu tự tánh không có
thì tha tánh cũng không có.
Khái niệm này ta cũng có thể tìm thấy nơi kinh tạng Pāli. Kinh Mật hoàn
nói: Chư Hiền, do nhân lỗ tai và các tiếng, nhĩ thức khởi lên, do nhân lỗ mũi
và các hương, tỷ thức khởi lên, do nhân lưỡi và các vị, thiệt thức khởi lê, do
nhân thân và xúc, thân thức khởi lên, do nhân ý và các pháp, ý thức khởi lên. Sự
gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có các cảm thọ. Những gì có cảm
thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thời
có hý luận
.
Theo đoạn kinh này, vì có sự tiếp xúc giữa mắt và sắc mà nhãn thức sanh. Như vậy,
khi một pháp sinh khởi cần phải có đủ các duyên khác. Nếu như các pháp không cần
duyên, thì con mắt phải sanh con mắt, sắc phải sanh sắc, nhưng ở đây kinh nói “duyên
mắt với sắc phát sanh ra nhãn thức”.
Theo Bồ-tát Long Thọ:
“Nếu quả từ duyên sanh
Duyên ấy không tự tánh
Từ không tự tánh sanh
Sao lại nói duyên sanh”.
Hay
“Quả chẳng từ duyên sanh
Chẳng từ phi duyên sanh
Quả ấy vốn không sanh
Duyên phi duyên cũng không”.
Ở đây Bồ-tát Long Thọ muốn bác bỏ cái nhìn của hàng phàm phu, cho là nhân sinh
ra quả, hoặc quả sinh ra nhân. Nói quả sinh ra từ nhân, nhưng nhân lại không có
tự tánh. Nếu nhân không có tự tánh thì nhân ấy sẽ bị thay đổi. Từ nhân thành
cây, cây lại ra quả, quả lại có nhân, liên tục thay đổi. Thế thì quả sinh ra gì?
Nếu nói quả sinh, thì quả phải sinh ra quả, chứ sao lại sinh ra cây, rồi từ cây
mới có quả. Cả một chiều dài từ nhân đến quả, rồi quả về với nhân, là một vòng
sinh và diệt liên tục, không có trạng thái nhất định của sanh và diệt.
Bởi vì “Các pháp không tự tánh, không có tướng thật có, nên việc nói thực
tướng, thì tướng thực như vậy chẳng đúng”.
Do đó
Bồ-tát Long Thọ nói là bất sanh. Các pháp không có tự tánh, không có tự tánh thì
không có tướng chân thật, nên nói có thật tướng là không đúng.
Vì cái gọi là sanh diệt đó chỉ là một hiện tượng theo thấy biết của chúng ta.
Nhìn trên mặt hiện tượng của pháp, ta thấy có con người hiện hữu ở đời, sống một
thời gian trên cõi đời, để rồi một ngày nào phải ra đi, và khi chết đi gọi là
mất. Nhưng theo Trung luận, ta thấy không có gì diệt mất, vì tất cả các
pháp vốn là không:
“Chưa từng có một pháp
Không từ nhân duyên sanh
Thế nên tất cả pháp
Không gì chẳng phải không”.
Vì các pháp là duyên sinh, nên mọi hiện tượng giống như trong giấc mộng, ảo ảnh
phù du, dường như có nhưng thật là không có, như ảnh chiếu qua gương.
Đó là giáo lý duyên khởi của Đức Phật, được Bồ-tát Long Thọ triển khai nhằm mục
đích đả phá những kiến chấp sai lầm vào thời của ngài.
2. Bất thường bất đoạn
Vì sao Bồ-tát Long Thọ nói Bất thường bất đoạn? Vấn đề này liên quan đến quan
điểm chấp thường và chấp đoạn mà trong các kinh đã đề câp. Trong kinh Phạm
võng ta thấy: “Người ấy nói: Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh,
vững chắc như đảnh núi, như trụ đá, còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển
luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy, chúng vẫn thường trú”.
Và trong kinh Tệ Tú có nói: “Bà-la-môn Tệ Tú là người có tà kiến, chủ
trương thuyết hư vô ông cho rằng: Không có thế giới khác. Không có loài hóa
sanh. Không có quả báo của tội phước”. Đây là một trong những dị kiến thuộc
trường phái chấp đoạn, chủ trương thuyết đoạn.
Hai đoạn kinh vừa dẫn là những kiến chấp của ngoại đạo được nêu ra vào thời Đức
Phật nhưng Đức Phật đã không trả lời. Tuy nhiên với Bồ-tát Long Thọ thì ngài cho
rằng “chẳng thường, chẳng đoạn”. Như vậy Long Thọ phủ nhận cả hai.
Ở đây người viết xin dẫn lại lời giảng giải của HT.THích Thanh Từ để làm sáng tỏ
vấn đề này.
Hỏi: Nếu chẳng diệt thì nên thường?
Đáp: Chẳng thường vì cớ sao? Vì thế gian mắt thấy vạn vật chẳng thường, như khi
mầm lúa nảy sanh thì hạt giống bị biến hoại, thế nên chẳng thường. Vậy thì mất
cái gì hạt lúa ư hay là mất mầm lúa, nếu như không có hạt lúa thì mầm lúa có
sanh không?
Nếu như nói thường thì hạt lúa phải thường còn mãi, chứ sao lại thành mầm lúa,
nếu hạt lúa đã thành mầm lúa, thì đã có sự thay đổi thì sao gọi là thường.
Hỏi: Nếu không thường thì đoạn?
Đáp: Không đoạn. Vì sao? Vì thế gian mắt thấy vạn vật không đoạn như hạt lúc
nảy mầm từ cây lúa, thế nên không đoạn, nếu đoạn thì không có sự tương tục.
Theo kinh Mi Tiên vấn đáp thì: “Thời gian thường trải qua ba thì: quá
khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ thì vô thỉ (không có khởi đầu) vị lai thì vô
chung (không có chấm dứt), nên nói quá khứ, vị lai đều vô cùng, vô tận, còn hiện
tại thì chỉ là cái chớp mắt thoáng trôi, đại vương nên có ý niệm về thời gian
như vậy. - Cả ba thì quá khứ, hiện tại, vị lai tức là thời gian, và thời gian
này luôn luôn hiện hữu và chi phối tất cả hữu tình có phải vậy không thưa Đại
Đức? - Có khi có, có khi không tâu Đại Vương”.
Ở đây ngài Mi Tiên muốn nói rằng quá khứ, vị lai thì không có điểm khởi đầu
cũng không có điểm kết thúc, hiện tại thì thoáng trôi qua. Bởi vì thời gian
không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc, nên kinh
Mi Tiên vấn đáp lại nói: “Thời gian tối sơ của một chúng sanh chẳng
thể tìm được tâu Đại Vương. Vì sao? Ví dụ trứng gà ấp nở ra con”.
Mọi pháp đều như thế, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, như
bánh xe luân hồi không có điểm dừng, xoay vần mãi không ngừng nghỉ. Và cũng do
vậy mà Trung luận nói: “Từ hạt giống có tương tục, từ tương tục mà có
quả, trước hạt giống sau có quả, không đoạn cũng không thường”. Hay: “Từ
khởi tâm ban đầu, tâm tâm tương tục sanh, từ đó có kết quả, thời không có tương
tục”.
3. Bất nhất bất dị
Và thời kỳ Phật giáo Bộ phái, Độc Tử bộ là bộ phái chủ
trương có thần ngã, có ngã thực hữu. Ngã ấy “phi tức phi ly ngũ uẩn”; và
họ lấy ví dụ củi và lửa để minh họa. Củi và lửa không phải một, không phải khác,
hai thứ nương vào nhau mà có và thật có.
Bồ-tát Long Thọ đã phản bác luận điểm trên:
“Nếu lửa có thể đốt
Vậy tác nhân và tác giả nên là một
Nếu đốt khác cái bị đốt
Vậy lìa khỏi cái bị đốt vẫn có cái đốt”.
Tuy nhiên:
“Lửa không tùy nhiên liệu
Cũng chẳng phải không tùy
Nhiên liệu không tùy lửa
Cũng chẳng phải không tùy”.
Ở đây người viết xin dẫn lại lời giảng giải của Hòa thượng Thích Thanh Từ để làm
sáng tỏ quan điểm “bất bất bất dị” mà ngài Long Thọ đưa ra.
Hỏi: Nếu như vậy vạn vật là một?
Đáp: Chẳng phải một, vì sao? Mắt thế gian thấy vạn vật chẳng phải một, như hạt
lúa không làm mầm, mầm không là hạt lúa, nếu như hạt lúa là mầm, mầm là hạt lúa
là một, mà thật không phải vậy nên chẳng là một.
Lại hỏi: Nếu không là một thì là khác?
Đáp: Chẳng khác, vì thế gian mắt thấy vạn vật chẳng phải khác, nếu khác thì làm
sao phân biệt hạt lúa, mầm lúa, cây lúa, mà không nói mầm cây, cọng cây, là cây,
thế nên không khác
…
4.
Bất lai bất xuất
Đến và đi là một trạng thái vận động từ nơi này đến nơi khác, hay từ nơi khác
đến nơi này. Khứ lai không phải chỉ dành riêng cho con người, mà tất cả vạn vật
đều nằm trong sự vận động đến và đi. Như nước chảy, mây bay, tan tụ theo sự
chuyển dịch của chúng cũng gọi là khứ lai.
Nhưng ở đây Trung luận cho rằng không có đến và không có đi.
Theo các nhà Hữu bộ, các pháp thật có trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai,
tức là họ chấp các pháp có tự tánh chân thực. Nhưng Long Thọ đã bác bỏ quan điểm
của các nhà Hữu bộ, nói rằng: “Đã đi không có đi, chưa đi cũng không đi, lìa
đã đi chưa đi, lúc đi cũng không đi”.
Nếu nói đã đi thì chúng ta đã đi rồi, còn nếu nói lìa người đi thì làm sao có
động tác đi, chưa đi thì không có người đi, vì chưa có động tác đi, còn khi nói
đang đi thì hành động đi hay người đi, hay nửa đi nửa dừng lại, thì nó chưa có
rời khỏi đã đi và chưa đi. Từ đó Long Thọ cho rằng đang đi cũng không phải đi:
“Không đi cũng không phải chưa đi, lúc đi cũng không đi, tất cả không có pháp
đi, vì cớ chi phân biệt”
. Lại nữa: “Nếu quyết định thật có người đi, người ấy
không thể sử dụng ba thời đi, nếu không quyết định thật có người đi, thì người
đi cũng không sử dụng ba thời đi”. Hay, “Động tác
đi quyết định có hay không có, người đi cũng không thể sử dụng ba thời đi, thế
nên đi, người đi và chổ đến đều không có”.
Qua hai kệ ta thấy, nếu quyết đinh có người đi, thì phải có động tác đi. Động
tác đi ấy chia làm ba thời, chưa đi, đã đi, đang đi.
Người ta không thể sử dụng ba thời đi, vì chưa đi thì không đi, đã đi rồi thì
không còn đi nữa, còn đang đi thì phải có người đi và động tác đi, nếu lìa động
tác đi và người đi thì pháp không lập được. Cho nên Bồ-tát Long Thọ nói chẳng
đến cũng chẳng đi. Sở dĩ chúng ta thấy có đến, có đi là chúng ta thấy trên
phương diện hiện tượng;
dựa vào thời gian và không gian mà các pháp có sự vận hành đến đi, nếu không có
thời gian và không gian thì đến đi không thể thành lập.
Sa Sa Ki Kyō Go, Taka Sako Jiki Dou, I No Kuchi Tai Jun, Tsuka Moto Kei
Dhō - Thích Đạt Hòa (Hán dịch), Thích Hạnh Bình, Phương Anh (Việt dịch),
Khái luận lịch sử Phật giáo Ấn Độ, (2013), NXB.TP.Hồ Chí Minh,
tr.113.
Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ 1, (2012), NXB.Tôn Giáo, Hà
Nội, tr.151.
Thích Nguyên Hùng, Tổng quan bốn bộ A-hàm, (2014), Toát yếu kinh
Trường A-hàm. NXB.Hồng Đức, Hà Nội. tr.40.