Bài Kinh Về Lòng Từ Tâm
bai kinh ve
BÀI KINH VỀ LÒNG
TỪ TÂM
Mettā Sutta SN 46.54
***
Hoang Phong chuyển
ngữ
Vài lời giới
thiệu của người chuyển
ngữ
Tựa và thứ tự của các bài
kinh là do người sau đặt thêm vào các bài giảng của Đức
Phật với mục
đích phân loại và sắp xếp, do đó nhiều bài
kinh có thể mang cùng một tên gọi, hoặc cùng một bài
kinh nhưng có nhiều tựa khác nhau. Đây cũng là trường
hợp của bài
kinh Metta
Sutta (Tương
Ưng Bộ Kinh/Samyutta Nikaya, SN 46.54) trên đây, bài
kinh này còn với nhiều tên khác như Mettasuttam, Karaniyametta
Sutta, Mettasahagata Sutta...
Ngoài
ra còn có một bài
kinh khác cũng mang cùng một tưa là Meta
Sutta nhưng hình
thức và cả nội dung đều có nhiều điểm khác biệt. Bài
kinh này được xếp vào Tiểu
Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong hai chỗ khác nhau, trong nhóm Kinh
Tập (Sutta Nipata Sn 1.8) cả trong nhóm kinh Tiểu
Tụng (Khuddakapatha Khp 9), chúng
ta sẽ trở
lại vấn
đề này trong phần ghi chú dưới đây. Bài
kinh này có nhiều bản dịch tiếng Việt, tất cả đều mang tựa là Kinh
Từ Bi. Trái
lại đối với bài
kinh Matta Sutta SN 46.54
thì chưa tìm
thấy bản dịch tiếng Việt nào. Trên nguyên tắc thì bài
kinh này cũng có trong Đại
Tạng Kinh, thế nhưng có thể vì cách sắp xếp dựa
vào bản thống kê của Hiệp
Hội Văn Bản Pali (Pali Text Society) đã khá xưa và ngày nay ít dùng, nên
rất khó tìm.
Bản chuyển
ngữ bài
kinh SN 46.54 dưới đây chủ yếu được dựa
vào bản dịch tiếng Anh của nhà
sư Thanissaro Bhikkhu (phụ
lục II) và bản dịch song ngữ Pali - tiếng Pháp (phụ
lục III). Tuy bài
kinh mang tựa là Lòng
Từ Tâm, thế nhưng thật ra nêu lên toàn
bộ bốn thể dạng vô
biên của tâm
thức là:
1- Metta: lòng
từ tâm, lòng
vị tha hay lòng
nhân ái (goodwill)
2- Karuna: lòng
từ bi, lòng thương
xót hay trắc
ẩn trước
cảnh khổ đau của chúng
sinh (compassion).
3- Mudita:
niềm hân
hoan và vui
sướng khi ước
vọng tất cả chúng
sinh đều được hạnh
phúc (empathic joy)
4- Upekkha:
sự thanh
thản, bình lặng, thăng bằng và thanh
thoát của tâm
thức (equanimity)
***
Bài Kinh về Lòng
Từ Tâm
SN 46.54
Có một
lần Đấng
Thế Tôn lưu trú tại bộ tộc của người Koliyan, gần một ngôi làng mang tên
là Haliddavasana, và sáng hôm đó, có một nhóm đông các tỳ-kheo thức sớm. Họ ăn
mặc áo lót bên trong thật chỉnh
tề, khoác thêm áo ấm bên ngoài, ôm bình
bát định đi
vào làng Haliddavasana khất
thực. Thế nhưng họ lại bàn với
nhau: "Trời còn quá sớm để vào làng Haliddavasana khất
thực. Vậy tại sao lại không tìm đến khu vườn [nơi tạm trú] (thường
là một khu rừng cây hay đất hoang mà các thôn ấp thường dảnh riêng làm nơi dừng
chân cho những người tu
hành khất
thực thời bấy giờ) của những kẻ lang thang thuộc các giáo
phái khác [để viếng thăm họ]?"
[Nghĩ thế] họ bèn tìm đến khu vườn của những kẻ lang thang thuộc
các giáo
phái khác. Khi đến nơi này thì hai bên cùng vái chào nhau. Sau vài lời thăm
hỏi ân
cần thì các tỳ-kheo (các đệ
tử của Đức
Phật) ngồi sang một bên.
Sau khi các tỳ-kheo vừa ngồi xong thì những kẻ lang thang thuộc các giáo
phái khác cất lời với họ: "Này các bạn, Vị từ
bỏ thế
tục Gotama (Cồ
Đàm, tức là Đức
Phật) từng giảng Dhamma (Đạo
Pháp) cho các đệ
tử của mình như sau:
"Này các tỳ-kheo, hãy loại
bỏ năm thứ chướng
ngại (kinh
sách Hán ngữ gọi là ngũ
triền cái), là các thứ ô
nhiễm tâm
thần làm suy
yếu sự nhận
thức. Vậy, trước hết hãy hòa nhập vào hướng thứ nhất [hướng đông] với
một tâm
thức thấm đượm lòng
từ tâm (metta/tình thương
yêu, lòng
vị tha). Sau đó lại tiếp
tục làm như thế đối với hướng thứ hai [hướng
tây], thứ ba [hướng nam] và thứ tư [hướng bắc]. [Sau đó] lại tiếp
tục hướng lên phía trên, phía dưới và toàn
thể chung quanh, không để sót một nơi nào, và luôn giữ tâm
thức thấm đượm lòng
từ tâm - tràn đầy, tỏa rộng và vô
tận - bên trong chính mình và cả vũ
trụ, không một thoáng hận
thù hay ác
cảm nào (làm
tỏa rộng tình
thương yêu bên trong tâm
thức mính và cả trong khắp miền không
gian).
"Hãy giữ sự hòa nhập vào
hướng thứ nhất với một tâm
thức thấm đượm lòng
từ bi (karuna/lòng thương
xót trước
cảnh khổ đau của chúng
sinh). Sau đó lại tiếp
tục làm như thế đối với hướng thứ hai, thứ ba và thứ tư. [Sau đó] lại tiếp
tục hướng lên phía trên, phía dưới và toàn
thể chung quanh, không để sót một nơi nào, và luôn giữ tâm
thức thấm đượm lòng
từ bi - tràn đầy, tỏa rộng và vô
tận - bên trong chính mình và cả vũ
trụ, không một thoáng hận
thù hay ác
cảm nào.
"Hãy giữ sự hòa nhập vào
hướng thứ nhất với một tâm
thức thấm đượm niềm hân
hoan (mudita,
niềm vui
sướng dâng lên và tràn ngập tâm
hồn khi ước
mong tất cả chúng
sinh đều được hạnh
phúc). Sau đó lại tiếp
tục làm như thế đối với hướng thứ hai, thứ ba và thứ tư. [Sau đó] lại tiếp
tục hướng lên phía trên, phía dưởi và tất cả chung quanh, không để sót
một nơi nào, luôn giữ tâm
thức thấm đượm niềm hân
hoan - tràn đầy, tỏa rộng và vô
tận - bên trong chính mình và cả vũ
trụ, không một thoáng hận
thù hay ác
cảm nào.
"Hãy giữ sự hòa nhập vào
hướng thứ nhất với một tâm
thức thấm đượm sự thanh
thản (upekkha/thể
dạng bình lặng, thanh
thoát và thăng bằng của tâm thưc). Sau đó lại tiếp
tục làm như thế đối với hướng thứ hai, thứ ba và thứ tư. [Sau đó] lại tiếp
tục hướng lên phía trên, phía dưởi và toàn
thể chung quanh, không để sót một nơi nào, luôn giữ tâm
thức thấm đượm sự thanh
thản - tràn đầy, tỏa rộng và vô
tận - bên trong chính mình và cả vũ
trụ, không một thoáng hận
thù hay ác
cảm nào".
"Này các bạn, chúng
tôi (tức
những kẻ lang thang thuộc các giáo
phái khác) cũng giảng cho các đệ
tử của chúng
tôi đúng như thế:
'Này các
các bạn, hãy loại
bỏ năm thứ chướng
ngại là các thứ ô
nhiễm tâm
thần làm suy
yếu sự nhận
thức. Vậy, trước hết hãy hòa nhập vào hướng thứ nhất với một tâm
thức thấm đượm lòng
từ tâm. Sau đó lại tiếp
tục làm như thế đối với hướng thứ hai, thứ ba và thứ tư. [Sau đó] lại tiếp
tục hướng lên phía trên, phía dưởi và toàn
thể chung quanh, không để sót một nơi nào, và luôn giữ tâm
thức thấm đượm lòng
từ tâm - tràn đầy, tỏa rộng và vô
tận - bên trong chính mình và cả vũ
trụ, không một thoáng hận
thù hay ác
cảm nào'.
(Các phân
đoạn dưới đây được rút
ngắn nhằm tránh bớt sự lập đi lập lại)
'Hãy hòa nhập vào hướng thứ nhất với một tâm
thức thấm đượm lòng
từ bi [...]
'Hãy hòa nhập vào hướng thứ nhất với một tâm
thức thấm đượm niềm hân
hoan [...]
'Hãy hòa nhập vào hướng thứ nhất với một tâm
thức thấm đượm sự thanh
thản. Sau đó lại tiếp
tục làm như thế đối với hướng thứ hai, thứ ba và thứ tư. [Sau đó] lại tiếp
tục hướng lên phía trên, phía dưởi và toàn
thể chung quanh, không để sót một nơi nào, luôn giữ tâm
thức thấm đượm sự thanh
thản và bình lặng - tràn đầy, tỏa rộng và vô
tận - bên trong chính mình và cả vũ
trụ, không một thoáng hận
thù hay ác
cảm nào'.
"Vậy có gì là khác biệt, tương phản hay phân
biệt giữa Dhamma do vị
Gotama thuyết
giảng và Dhamma của chúng
tôi đâu. Cả hai giáo
huấn đều giống như nhau".
Nhóm tỳ-kheo (các đệ
tử của Đức
Phật) không tán đồng cũng không bác
bỏ những lời phát
biểu đó của những kẻ lang thang thuộc các giáo
phái khác, mà chỉ đứng lên [cáo
từ] và đi khất
thực. Họ bàn với
nhau: "Chúng ta tất sẽ phải hiểu được những lời họ nói sau khi tham
vấn Đấng Thế Tôn".
Họ đi khất
thực trong làng Haliddavasana và sau khi ăn xong thì họ tìm gặp Đấng
Thế Tôn. Khi gặp Ngài thì họ vái chào và ngồi sang một bên. Sau khi ngồi
xuống họ thuật lại với Đấng
Thế Tôn [những gì xảy ra vào sáng sớm hôm đó].
"Này các tỳ-kheo, khi nào
những người lang thang thuộc các giáo
phái khác nêu lên như thế, thì phải trả
lời họ như thế này:
"Này các bạn, thế
nhưng nếu muốn giải
thoát tâm
thức (awareness-relase/libération
de l'esprit/tiếng Pali là cetovimutti, tiền ngữ ceto có nghĩa là tâm
thức, hậu ngữ vimutti có nghĩa là giải
thoát, giải
thoát ở đây có nghĩa là loại
bỏ khỏi tâm
thức mọi dục
vọng, đam
mê và bám
víu, nói chung là các thứ ô
nhiễm tâm
thần) bằng cách phát huy lòng
từ tâm thì phải làm thế nào? Nó sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột đỉnh
của nó là gì? Kết quả và chủ
đích của nó là gì?
"Nếu muốn giải
thoát tâm
thức bằng cách phát huy lòng
từ bi thì phải làm thế nào? Nó sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột
đỉnh của nó là gì? Kết quả và chủ
đích của nó là gì?
"Nếu muốn giải
thoát tâm
thức bằng cách phát huy niềm hân
hoan thì phải làm thế nào? Nó sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột
đỉnh của nó là gì? Kết quả và chủ
đích của nó là gì?
"Nếu muốn giải
thoát tâm
thức bằng cách phát huy sự thanh
thản thì phải làm thế nào? Nó sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột
đỉnh của nó là gì? Kết quả và chủ
đích của nó là gỉ?
"Nếu hỏi họ như vậy
thì họ sẽ không sao trả
lời được, hơn nữa họ sẽ vô
cùng bối
rối. Tại sao lại như vậy? Bởi vì các điều ấy vượt khỏi tầm tay của họ. Ta
chẳng thấy ai trong thế
giới này - dù là các Thiên
nhân (Deva), Thiên-ma (Mara), các Vị trời Bhrama, những kẻ từ
bỏ (những
người tu
hành từ
bỏ thế
tục), những người bà-la-môn (brahman),
những người trong hoàng
tộc hay dân dã - lại có thể thỏa
mãn tâm
thức mình với các câu trả
lời của họ về các thắc mắc ấy, ngoài Như
Lai hay một đệ
tử của Như
Lai hoặc một người từng được nghe họ thuyết
giảng (họ
ở đây là Đức
Phật và các đệ
tử của Ngài).
(Sau
khi chỉ dạy các đệ
tử của mình phải trả
lời như thế nào khi những người tu
hành thuộc các giáo
phái khác vặn
hỏi và cho rằng giáo
phái của mình cũng giảng dạy giống như thế, thì Đức
Phật tiếp
tục chỉ dạy các đệ
tử của mình cách phát huy bốn phẩm tính của tâm
thức và các cấp bậc giải
thoát tương quan với các phẩm tính đó. Đấy cũng là những gì sâu
xa, cụ
thể và siêu
việt, mang các
chủ đích rõ rệt, khác hẳn với các giáo
phái khác)
"Này các tỳ-kheo, vậy
thì phải làm thế nào để giải
thoát tâm
thức bằng cách phát huy lòng
từ tâm. Nó sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột đỉnh của nó là gì?
Kết quả và chủ
đích của nó là gì?
"Đấy là trường
hợp người tỳ-kheo phát huy sự tỉnh
thức (tiếng
Pali là samma-sati, samma có nghĩa là đúng
đắn, chính
xác, tròn đầy..., sati có nghĩa là sự nắm bắt, ghi
nhận hay nhận
biết trong
sáng và sắc bén của tâm
thức, nói chung là một sự chú
tâm và tập trung
tâm thần thật cao độ, các ngôn
ngữ Tây
phương gọi là mindfulness/pleine conscience, présence d'esprit/sự tỉnh
giác hay tỉnh
thức. Kinh sách Hán ngữ gọi là chánh
niệm) như
là một yếu
tố giác
ngộ (yếu
tố giác
ngộ tiếng Pali là bojjhanga, gồm
có bảy yếu
tố: 1.sati/sự chú
tâm, 2.dhamma-vicaya/tìm
hiểu hay phân tích các hiện
tượng, 3.viriya/nghị
lực, sự kiên
trì, 4.piti/ sự thích
thú, niềm hân
hoan, 5.passaddhi/sự tĩnh
lặng, 6.samadhi/sự tập
trung, 7.upekkha/sự thanh
thản) kèm theo lòng
từ tâm, dựa
vào sự cô
độc (seclusion/isolement/ẩn dật, lánh
xa thế
tục), dựa
vào sự buông
bỏ (dispassion/
détachement/không đam
mê, từ
bỏ mọi dục
vọng, thèm
khát và bám
víu), dựa
vào sự chấm
dứt (cessation/sự
tắt nghỉ, sự dừng lại), kết quả mang lại là sự buông
xả (letting
go/le lâcher-prise/buông ra, không nắm bắt bất cứ một thứ gì cả).
["Đấy là trướng hợp]
người tỳ-kheo phát huy nghi
lực như là một yếu
tố giác
ngộ kèm theo lòng
từ tâm, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, dựa
vào sự tĩnh
lặng, kết quả mang lại là sự buông
xả.
["Đấy là trường
hợp] người tỳ-kheo phát huy sự kiên
trì (persistence/exaltation/sự
bền chí, niềm hứng khởi), như một yếu
tố giác
ngộ kèm theo lòng
từ tâm, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả.
["Đấy là trường
hợp] người tỳ-kheo phát huy sự từ
bỏ (rupture,
cắt đứt, đoạn
tuyệt, không nắm bắt) như là một yếu
tố giác
ngộ kèm theo lòng
từ tâm, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự tĩnh lặng, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả.
["Đấy là trường
hợp] người tỳ-kheo phát huy sự tĩnh
lặng (calm,
serenity, sự yên lặng, sự trong
sáng) như là một yếu
tố giác
ngộ kèm theo lòng
từ tâm, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả.
["Đấy là trường
hợp] người tỳ-kheo phát huy sự tập
trung (concentration/sự chú
tâm thật thăng bằng và vững
chắc) như là một yếu
tố giác
ngộ kèm theo lòng
từ tâm, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại sự buông
xả.
"Người tỳ-kheo phát huy
sự thanh
thản (equanimity/thể
dạng bình lặng của tâm
thức) như là một yếu
tố giác
ngộ kèm theo lòng
từ tâm, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả.
"Nếu muốn thì người
tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự kinh-tởm bên
trong những gì không-kinh-tởm.
Nếu muốn thì người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự không-kinh-tởm bên
trong những gì kinh-tởm.
Nếu muốn thì người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự kinh-tởm bên trong những gì không-kinh-tởm và [đồng
thời] cũng nhận
biết được đấy là gì. Nếu muốn thì người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự không-kinh-tởm bên trong những gì kinh-tởm và [đồng
thời] cũng nhận
biết được đấy là gì (có
nghĩa là ý
thức được bản
chất của mọi hiện
tượng. Chúng có thể tốt
đẹp nhưng bản
chất bên trong chúng là xấu
xa hoặc ngược lại, và dù là trường
hợp nào thì người tỳ
kheo cũng có thể "cắt đứt" nếu muốn, hầu mang lại cho mình sự
giải thoát, và đó cũng là ý
nghĩa của sự "buông xả"/letting go nói đến trong bài
kinh).
"Trước những gì kinh-tởm
và cả những gì không-kinh-tởm, nếu muốn thì người tỳ- kheo cũng có thể cắt đứt
được cả hai, hầu mang lại cho mình sự thanh
thản (upekkha/
equanimity), cảnh
giác và tỉnh
thức (chánh
niệm, có nghĩa là một tâm
thức đã loại
bỏ được thứ các xúc cảm và tạo tác tâm
thần). Hoặc người người tỳ-kheo cũng có thể hòa nhập và thường trú
trong sự giải
thoát cao đẹp đó (sự
giải thoát cao đẹp hay tốt
đẹp ở đây có nghĩa là một
thể dạng giải
thoát tốt nhất tương quan với cấp bậc buông
xả đó của người tỳ-kheo, nhưng chưa phải là một sự
giải thoát tối
thượng). Này các tỳ-kheo, Ta bảo với các tỳ-kheo rằng sự
giải thoát tâm
thức bằng cách phát huy lòng
từ tâm sẽ mang lại một
thể dạng giải
thoát tâm
thức cao đẹp nhất đối
với một người tỳ-kheo mà sự nhận
thức chưa
đủ đạt
được một cấp bậc buông
xả cao hơn (câu
này rất quan trọng, có thể hiểu như là một lời cảnh
giác của Đức
Phật: tu
tập về lòng
từ tâm chỉ có thể mang lại một sự
giải thoát tương quan với một sự buông
xả ở một cấp bậc tương xứng
với sự phát huy về lòng
từ tâm đó của mình mà thôi. Trong phần ghi chú bên dưới bản dịch tiếng
Anh của bài
kinh này (phụ
lục II), nhà
sư Thanissaro cũng có giải
thích thêm là sự "cao đẹp" hay "tốt đẹp" ở đây tiếng Pali gọi là subha,
và cũng chỉ là một trong số bốn thể dạng tập trung
tâm thần gọi là jhana trước khi có thể hòa nhập vào các cấp bậc jhana
phi-hình-tướng cao hơn. Nói chung Jhana là các "thể dạng lắng sâu" của tâm
thức hiện
lên trong khi hành thiền, kinh sách Tây
phương không dịch chữ jhana mà dùng thẳng tiếng Pali là jhana hay tiếng
Phạn là Dhyana. Kinh sách tiếng Việt gọi là định hay thiền-na).
"Vậy phải làm thế nào để giải
thoát tâm
thức bằng cách phát huy sự tỉnh
thức (tỉnh
giác, chánh
niệm) như là một yếu
tố giác ngộ? Nó sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột đỉnh của nó là gì? Kết quả
và chủ
đích của nó là gì?
"Đấy là trường
hợp người tỳ-kheo phát huy sự tỉnh
thức như là một yếu
tố giác
ngộ kèm theo lòng
từ bi, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả. Người tỳ-kheo phát huy sự kiên
trì như là một yếu
tố giác
ngộ [..,]. Người tỳ-kheo phát huy sự tĩnh
lặng như là một yếu
tố giác
ngộ [...] Người tỳ-kheo phát huy sự tập
trung như là một yếu
tố giác
ngộ [...] Người tỳ-kheo phát huy sự thanh
thản như là một yếu
tố giác
ngộ, kèm theo lòng
từ bi, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả
(Phân
đoạn trên đây đã được rút
ngắn để tránh bớt sự lập đi lập lại. Xin mạn phép nhắc thêm là cách lập
đi lập lại cùng một câu, chỉ thêm
bớt hay thay đổi một chữ, là cách giúp việc học
thuộc lòng được dễ dàng hơn).
"Nếu muốn thì người
tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự kinh-tởm bên trong những gì không-kinh-tởm. Nếu muốn thì
người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự không-kinh-tởm bên trong những gì kinh-tởm. Nếu muốn thì
người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự kinh-tởm bên trong những gì không-kinh-tởm và [đồng
thời] cũng nhận
biết được đấy là gì. Nếu muốn thì người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự không-kinh-tởm bên trong những gì kinh-tởm và [đồng
thời] cũng nhận
biết được đấy là gì.
"Hoặc người tỳ-kheo [cũng
có thể] vượt hẳn lên trên mọi sự nhận
thức hình
tướng (vật
chất), mang lại sự tan biến của mọi sự nhận
thức ghê tởm (ghét
bỏ), cũng không
chú tâm vào các sự nhận
thức đa dạng, mà [chỉ cảm nhận] một bầu không
gian vô
tận. Người tỳ-kheo hòa nhập và thường trú trong bầu không
gian vô
tận đó. Này các tỳ-kheo, ta bảo với các tỳ-kheo rằng sự
giải thoát tâm
thức bằng cách phát huy lòng
từ bi sẽ đưa đến một
thể dạng giải
thoát tâm
thức cao đẹp nhất đối với một người tỳ-kheo mà sự nhận
thức chưa đủ đạt
được một cấp bậc buông
xả cao hơn (người
tỳ-kheo trong lúc thiền
định "cắt đứt" mọi sự bám
víu, giúp mình vượt lên trên mọi sự nhận
thức đa dạng, tạo ra cho mình một bầu không
gian vô
tận và đồng nhất, và hòa nhập vào bầu không
gian đó).
"Vậy phải làm thế nào
để giải
thoát tâm
thức bằng cách phát huy niềm hân
hoan? Nó sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột đỉnh của nó là gì? Kết
quả và chủ
đích của nó là gỉ?
"Đấy là trường
hợp người tỳ-kheo phát huy sự tỉnh
thức (chánh
niệm) như là một yếu
tố giác
ngộ kèm theo lòng
từ bi, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả. Người tỳ-kheo phát huy sự phân
tích mọi hiện
tượng (tìm
hiểu bản
chất của mọi hiện
tượng) như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự kiên
trì như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự từ
bỏ như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự tĩnh
lặng như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự tập
trung như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự thanh
thản như là một yếu
tố giác
ngộ, kèm theo niềm hân
hoan, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả,
(Phân
đoạn trên đây đã được rút
ngắn để tránh bớt sự lập đi lập lại)
"Nếu muốn thì người
tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự kinh-tởm bên trong những gì không-kinh-tởm. Nếu muốn thì
người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự không-kinh-tởm bên trong những gì kinh-tởm. Nếu muốn thì
người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự kinh-tởm bên trong những gì không-kinh-tởm và [đồng
thời] cũng nhận
biết được đấy là gì. Nếu muốn thì người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự không-kinh-tởm bên trong những gì kinh-tởm và [đồng
thời] cũng có thể nhận
biết được đấy là gì. Trước những gì kinh-tởm và cả những gì
không-kinh-tởm, nếu muốn thì người tỳ-kheo cũng có thể cắt đứt được cả hai, hầu
mang lại cho mình sự thanh
thản, cảnh
giác và tỉnh
thức (chánh
niệm).
Hoặc người tỳ-kheo [cũng
có thể] vượt
hẳn lên trên bầu không
gian vô
tận (trên
đây Đức
Phật đã giảng cách tỏa rộng tâm
thức để hòa nhập với bốn phương trời, cả trên và dưới và cả chung quanh
hầu tạo ra cho mình một bầu không
gian vô
tận. Đến đây Đức
Phật lại dạy thêm là phải vượt lên trên cả bầu không
gian vô
tận đó) hầu giúp mình nhận
thức được tri
thức vô
tận [của mình]. Người tỳ-kheo có thể hòa nhập và thường trú
trong bầu tri
thức vô
tận đó. Này các tỳ-kheo, Ta bảo với các tỳ-kheo rằng sự
giải thoát tâm
thức nhờ vào niềm hân
hoan sẽ mang lại cho mình bầu tri
thức vô
tận như là một
thể dạng [tâm
thần] cao đẹp nhất đối với một người tỳ-kheo mà sự nhận
thức chưa đủ đạt
được một cấp bậc buông
xả cao hơn.
"Vậy phải làm thế nào để giải
thoát tâm
thức bằng cách phát huy sự thanh
thản? Nó sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột đỉnh của nó là gì? Kết
quả và chủ
đích của nó là gỉ?
"Đấy là trường
hợp người tỳ-kheo phát huy sự tỉnh
thức (chánh
niệm) như là một yếu
tố giác
ngộ kèm theo sự thanh
thản, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả. Người tỳ-kheo phát huy sự phân
tích mọi hiện
tượng (tìm
hiểu bản
chất của mọi hiện
tượng) như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy nghị
lực như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự từ
bỏ như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự tĩnh lặng như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự tập trung như là một yếu
tố giác
ngộ [...], phát huy sự thanh
thản như là một yếu
tố giác
ngộ, kèm theo sự thanh
thản, dựa
vào sự cô
độc, dựa
vào sự buông
bỏ, dựa
vào sự chấm
dứt, kết quả mang lại là sự buông
xả.
(Phân
đoạn trên đây đã được rút
ngắn để tránh bớt sự lập đi lập lại)
"Nếu muốn thì người
tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự kinh-tởm bên trong những gì không-kinh-tởm. Nếu muốn thì
người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự không-kinh-tởm bên trong những gì kinh-tởm. Nếu muốn thì
người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự kinh-tởm bên trong những gì không-kinh-tởm và [đồng
thời] cũng nhận
biết được đấy là gì. "Nếu muốn thì người tỳ-kheo cũng có thể nhận
biết được sự không-kinh-tởm bên trong những gì kinh-tởm và [đồng
thời] cũng có thể nhận
biết được đấy là gì. Trước những gì kinh-tởm và cả những gì
không-kinh-tởm, nếu muốn thì người tỳ-kheo cũng có thể cắt đứt được cả hai, hầu
giúp mình thường trú trong sự thanh
thản, cảnh
giác và tỉnh
thức (chánh
niệm).
Hoặc người tỳ-kheo [cũng
có thể] vượt hẳn lên trên bầu tri
thức vô
tận để cảm nhận được chẳng
có một thứ gì cả, hầu hòa nhập và thường trú trong bầu không
gian chẳng có một thứ gì cả. Này các tỳ-kheo, ta bảo với các
tỳ-kheo rằng sự
giải thoát tâm
thức nhờ vào sự thanh
thản sẽ mang lại một bầu không
gian chẳng có gì cả như là một
thể dạng giải
thoát tâm
thức cao đẹp nhất đối với một người tỳ-kheo mà sự nhận
thức chưa đủ đạt
được một cấp bậc buông
xả cao hơn (qua
bốn phép thiền
định trên đây người tỳ-kheo cũng chỉ có thể
đạt đưọc một
thể dạng tâm
thức cao đẹp nhất là một "Bầu không
gian chẳng có gì cả". Bầu không
gian trống không đó chưa phải là sự giác
ngộ cuối
cùng và tối
thượng)
Vài lời ghi chú của người chuyển
ngữ
Vậy chúng
ta học được những gì qua bài
kinh trên đây?
Trước hết, qua câu
chuyện về sự sinh
hoạt của một số tỳ-kheo vào một buổi sáng sớm cách nay hơn 2500 năm, chúng
ta cũng có thể hình
dung ra bối cảnh tín
ngưỡng của thời bấy giờ. Những người từ
bỏ thế
tục sống phiêu
bạt, nay đây mai đó, sự sinh
tồn của họ phải nhờ vả người thế
tục, ngược lại người thế
tục qua cử
chỉ hiến dâng miếng ăn cho người tu
hành đã mang lại cho mình một cuộc sống có ý
nghĩa hơn. Phải
chăng đấy cũng là điểm nổi
bật nhất của nền văn
minh Ấn-độ nói chung vào các thời
kỳ cổ đại. Nền văn
minh đó chú trọng vào cuộc sống tinh
thần nhiều hơn là của
cải và các phát minh vật
chất như các nền văn
minh khác..
Điểm đáng lưu
ý thứ hai là người xưa biết tôn
trọng nhau, không tranh cãi, cũng không tự nhận mình là thấu
triệt tất cả. Các vị tỳ-kheo rất thận
trọng, tìm Đức
Phật để tham
vấn mỗi khi gặp phải những điều mà mình không hiểu hết. Trái
lại ngày nay, phải
chăng chúng
ta tự
do hơn nhiều?
Trở
lại với kho tàng kinh
điển mà người xưa lưu lại thì bài
kinh Metta Sutta bằng
tiếng Pali có hai bản khác hẳn nhau như đã được nêu lên trong phần giới
thiệu trên đây. Hai bài
kinh này xuất
hiện trong hai bộ
kinh khác nhau: bài thứ nhất trong Tương
Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) mang số SN 46.54 và cũng là bài
kinh được chuyển
ngữ trên đây, và bài thứ hai trong Tiểu
Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya), thế nhưng bên trong bộ
kinh này bài
kinh thứ hai nói đến trên đây lại xuất
hiện tại hai nơi
khác nhau: một trong Kinh
Tập (Sutta Nipata) mang số Sn 1.8 (hoặc PTS Sn 143-152 nếu dựa
vào cách phân loại của Hiệp
Hội Văn Bản Pali (Pali Text Society), và một trong tập Tiểu
Tụng (Khuddakapatha) mang số Khp 9. Tóm
lại hai hản kinh này - Sn 1.8 và Khp 9 - cũng chỉ là một.
Bài
kinh thứ hai này (Sn 1.8 hay Khp 9) là một bài
kệ rất phổ
biến được dùng để tụng, và có rất nhiều bản dịch sang tiếng Việt, tất cả
đều mang tựa là Kinh
Từ Bi. Ngoài
ra cũng có hàng chục bản dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp khác nhau,
mang nhiều tựa khác nhau: Goodwill (do
Thanissaro Bhikhu dịch), Loving
Kindness (do Nanamoli Thera dịch), The
Discourse of Loving (do Piyadassi Thera dịch), The
Buddha's Word of Loving (do Tăng
đoàn Amaravati Anh quốc dịch), Hymne
de l'Amour universel (do Jeanne Schut dịch), v.v. Các tựa này đều có nghĩa
là Tình
thương yêu, Lòng
Nhân từ hay Từ
tâm (Metta) trong khi đó
các bản dịch tiếng Việt thì lại mang tựa là Kinh
Từ Bi (Karuna). Dầu
sao thì bản
kinh Metta Sutta thứ hai
này cũng nêu lên toàn
bộ cả bốn phẩm tính metta,
karuna, mudita và uppekkha tức là từ,
bi, hỷ, xã. tương
tự như trong bài
kinh SN 46.54 được chuyển
ngữ trên đây.
Vậy nguyên
nhân nào đã đưa đến hai bản
kinh khác nhau là SN 46.54 và Sn 1.8 hay Khp 9, nhưng lại mang cùng một
tựa và được xếp vào hai bộ
kinh khác nhau? Các bài
kinh trên đây dù nêu lên cùng một chủ
đề chung là bốn phẩm tính vô
biên của tâm
thức, thế nhưng chủ
đích, nội dung và tính
cách sâu sắc thì hoàn
toàn khác biệt nhau. Bài
kinh SN 46.54 là một bài giảng của Đức
Phật rất "kỹ thuật", siêu
việt, dành cho một nhóm đệ
tử bên cạnh Ngài tại bộ tộc Koliyan, gần ngôi làng Haliddavasana. Bài
giảng này giải
thích thật chi
tiết về bốn phép luyện tập thiền
định nhằm mở
rộng và biến tâm
thức người hành thiền trở
thành vô
tận và hòa nhập vào một bầu không
gian trống không chẳng có gì cả.
Trái
lại bài
kinh Sn 1.8 hay Khp 9, tuy cùng nêu lên bốn phẩm tính metta,
karuna, mudita và upekkha như
trong bài
kinh SN 46.54, nhưng chỉ là một bài
kệ dùng để tụng
niệm. Dầu việc tụng
niệm cũng có thể xem là một cách thiền
định, thế nhưng chỉ là một cách thiền
định gián
tiếp, thuộc vào một cấp bậc thấp, không thể so
sánh với phương
pháp thiền
định hướng thẳng vào tâm
thức để trực tiếp biến
cải tâm
thức, như trong bài
kinh SN 46.54 trên đây. Do đó có thể nghĩ rằng bài
kinh Sn 1.8 hay Khp 9 chỉ là một bản tóm lược bài
kinh SN 46.54, với mục
đích phổ
biến rộng
rãi trong dân gian. Bản rút
ngắn và đơn
giản hóa này có thể là do các đệ
tử của Đức
Phật thực
hiện vào thời
đại của Ngài hoặc muộn hơn về sau này. Tuy
nhiên cũng có thể xem bài
kệ này là do Đức
Phật trực tiếp thuyết
giảng, nhưng dành cho một cử
tọa đại
chúng. Dầu sao dường như
không có bằng chứng nào cho thấy Đức
Phật từng thuyết
giảng bằng cách tụng
niệm hay bằng văn
vần, mà bằng cách giải
thích chi
tiết và khúc triết hơn về một chủ
đề nào đó. Một số các bài
kinh - nhất là trong Tiểu
Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) - dường như đã được đơn
giản hóa và chuyển thành văn
vần, vào thời
đại của Đức
Phật hoặc sau đó, nhằm thích
nghi hơn với quảng
đại quần
chúng, nhất là giúp việc học
thuộc lòng được dễ dàng hơn. Xin trích dẫn dười đây một bài tụng tiêu
biểu của Phật
giáo Tây Tạng, nêu lên bốn phẩm tính metta,
karuna, mudita và uppekkha (phụ
lục I).
Điểm đáng lưu
ý thứ ba là nguyên
nhân nào đã đưa đến bài thuyết
giảng trên đây của Đức
Phật. Vào một buổi sáng, nơi tạm dừng chân của những người tu
hành phiêu
bạt, cạnh ngôi làng Haliddavasana, có một nhóm người tu
hành thuộc các giáo
phái khác nêu lên với các đệ
tử của Đức
Phật về sự tương đồng giữa giáo
huấn của vị Gotama và giáo
huấn của họ liên
quan đến phép thiền
định về bốn phẩm tính tinh
thần trên đây. Mượn dịp này Đức
Phật giải
thích thật cặn
kẽ và chi
tiết cho các đệ
tử của mình các phép luyện tập về bốn phẩm tính vô
biên. Ngài cho
biết là các phép luyện tập ấy sẽ đưa mình đến đâu? Các cấp bậc tâm
thức cao nhất nào mà các phép thiền
định đó có thể mang lại cho người tu tập? Kết quả và chủ
đích của các phép luyện tập ấy là gì? Và chính đấy cũng là những gì mà
các giáo
phái khác không thể giải
đáp được.
Thật vậy đạo Bà-la-môn và đạo Jain cũng chủ trương thiền
định về bốn phẩm tính
tâm thức trên đây. Theo các tư liệu ngày nay thì đạo Bà-la-môn cho rằng
sự suy tư và chiêm
nghiệm - nói chung là thiền
định - về bốn thể loại cảm tính "thích thú", "đớn đau", "đạo-đức" và
"phi-đạo-đức" sẽ giúp tạo ra trong tâm
thần người tu
hành các cảm tính nhân
từ, lòng
từ bi, niềm hân hoan và sự thanh
thản. Đạo Jain thì chủ trương phải chiêm
nghiệm và suy ngẫm về bốn phẩm tính là "tình
thân thiện" đối với tất cả chúng
sinh (tiếng Phạn là maitri/lòng nhân
từ, chữ maitri đồng
nghĩa với chữ metta trong tiếng Pali), "niềm
hân hoan" khi nhìn vào các chúng
sinh khác vượt xa
hơn mình trên đường giải
thoát (tiếng Phạn là pramoda/sự thích
thú, niềm vui
sướng), "lòng từ bi" đối
với tất cả các chúng
sinh bất
hạnh (tiếng Phạn và Pali là karuna/sự xót
thương), và sau hết là "sự
dửng dưng" hay "vô cảm" trước những kẻ kém nhã
nhặn, hoặc có các hành
vi thiếu đạo
đức (tiếng Phạn là madhyasthya/thản nhiên, không
chấp nhất). Thế nhưng cả hai tín
ngưỡng trên đây đều dừng lại với các cảm tính đó, với các
chủ đích đơn
giản và hạn hẹp đó.
Trong Giáo
Huấn của Đức
Phật phép thiền
định về bốn phẩm tính vô
biên sẽ dưa đến bốn cấp bậc lắng sâu của tâm
thức gọi là bốn jhana (định hay thiền-na):
1- Cấp bậc thấp nhất là Tình
thương yêu hay lỏng từ
tâm (Metta). Nhờ vào cách
phát huy phẩm tính này, người tỳ-kheo có thể
đạt được một cấp bậc tri
thức tương quan với phẩm tính đó, nhưng không thể đi xa
hơn nếu khả năng nhận
thức của mình chưa đủ để đạt
được một sự buông
xả cao hơn.
2- Cấp bậc của Lòng
từ bi (Karuna) cao hơn cấp
bậc Từ
tâm, thế nhưng người tỳ-kheo cũng chỉ có thể
đạt được một cấp bậc tri
thức tương quan với phẩm tính đó, nếu sự nhận
thức của mình chưa đủ để đạt
được một sự buông
xả cao hơn.
3- Cấp bậc của Niềm hân
hoan (Mudita) hiện
lên trong tâm
thức khi ước
mong tất cả chúng
sinh đều đạt
được hạnh
phúc, tuy cao hơn cấp bậc của Lòng
từ bi nhưng cũng chỉ giúp người tỳ-kheo đạt
được một cấp bậc tri
thức tương quan với phẩm tính đó, nếu sự nhận
thức của mình chưa đủ để đạt
được một sự buông
xả cao hơn.
4- Sự Thanh
thản (Upekkha) hay thể
dạng thăng bằng và bình lặng của tâm
thức là cấp bậc cao nhất trong số bốn phẩm tính, thế nhưng cũng chỉ mang
lại cho người tỳ-kheo một
thể dạng tri
thức tương quan với phẩm tính đó, nếu sự nhận
thức của mình chưa đủ để đạt
được một sự buông
xả cao hơn.
Nói chung phép luyện tập về bốn thế dạng vô
biên của tâm
thức vẫn chưa đủ để mang lại một sự
quán thấy xuyên
thấu là Vipassana. Trong phần ghi chú bên dưới bản dịch tiếng Anh (phụ
lục II), nhà
sư Thanissaro Bhikkhu có cho
biết là bốn cấp bậc tri
thức trên đây tương quan với bốn cấp bậc jhana của tâm
thức, tức là bốn cấp bậc lắng sâu tuần
tự và liên
tục của tâm
thức từ thấp đến cao, nhưng chưa đủ để hòa nhập vào các thể dạng jhana
vô-hình-tướng..
Sau hết điều quan trọng hơn cả trong bài
kinh này là những lời cảnh
giác của Đức
Phật về các cách tu
tập của chúng
ta, dù là dưới hình
thức tụng
niệm, cầu
an, cầu siêu, thiền
định, nghe giảng, tham
gia các khóa ẩn
cư, tu
học hay tham
dự các bữa cơm xã
hội , v.v. thì thiết
nghĩ cũng nên nhớ lại những lời căn dặn của Đức
Phật: "Các
phép tu
tập ấy, các hình
thức sinh
hoạt ấy, sẽ đưa mình đến đâu? Điểm tột đỉnh của chúng là gì? Kết quả và chủ
đích của chúng là gì? Chúng có được kèm thêm với các yếu
tố giác
ngộ và các phẩm tính khác hay không?"
Bures-Sur-Yvette, 18.02.20
Hoang
Phong