Vầng Trăng Thu
vang trang thu
Vĩnh Hảo
Khi cùng
tử đến đây, mùa
hạ chưa qua, mùa
thu chưa đến. Lá trên cành còn xanh màu lộc biếc. Những cây tùng già cỗi
được cắt xén bao lần, vẫn kiên
trì chan nắng giữa công viên. Chiều bâng khuâng mây bạc ngủ trên ngàn.
Đàn chim hiền
hòa vỗ cánh băng qua phố. Nơi quán trọ, lữ
khách hồn
nhiên đưa
mắt nhìn. Không nhà ai nhóm bếp bằng than củi, khói chiều không bay trời
xứ lạ. Những con
đường phố thị không một mẩu rác. Vội
vàng bước qua những sân ga ngập dòng người. Người rất đông nhưng không ai nói
một lời. Chỉ có âm
thanh của bước chân, gõ loạn nhịp trên sàn đá hoa bóng lưỡn. Từng đoàn
người đi qua. Từng đoàn xe đi qua. Mà thực
ra không có đoàn nào cả. Tất cả đi qua bằng thân
phận cô lẻ, riêng tư. Mỗi người ôm một giấc mơ thật lớn, và thật nhỏ. Bên
trong giấc mơ — khi thức hay khi ngủ, là nơi cái tuyệt
đối vô hình vô ảnh lúc ẩn lúc hiện, mà hầu như chẳng ai thèm quan
tâm chú ý.
Mishima đã thấy gì nơi vẻ lộng lẫy một cách tĩnh lặng của Kim
Các Tự (1); và Kawabata đã thấy gì nơi cái đẹp muôn
thuở của Ngàn Cánh Hạc (2)
qua vạt áo kimono của người con gái trang
nghiêm pha trà, mà
cả hai văn
hào vĩ đại này lần
lượt tự vẫn? Cùng
tử trầm
ngâm trước mộ văn
hào. Phải
chăng chỉ có thể
đạt đến kỳ cùng lý tánh bằng cách tự hủy xác thân này? Phải
chăng chỉ có thể chứng
nghiệm được cái tuyệt
đối qua khoảnh khắc mong
manh huyền
ảo giữa hai bờ tử-sinh? Phải
chăng chú
tiểu Mizoguchi (3) phải thiêu rụi toàn
bộ Kim
Các Tự mới thâm
nhập được cảnh
giới nội tại tuyệt mỹ?
Như Lô
Sơn, Kim
Các Tự cũng
thế: đến rồi, thấy không gì lạ, không gì ngoại lệ. Căn gác của một ngôi
chùa dác vàng đứng bên hồ nước trong veo. Ngày soi óng ánh
mặt trời, đêm dọi huyền hoặc trăng sao. Nghìn xưa nghìn sau có vẻ không
khác gì. Nhưng kỳ thực thì Kim
Các Tự đã bị đốt cháy bởi một chú
tiểu, sáu năm trước khi Mishima cho xuất bản tiểu thuyết mang tên ngôi
chùa này.
Hàng đoàn người từ nhiều phương xứ kéo về đây, nói cười, thay nhau tìm vị
trí thích
hợp để chụp hình với cái phông Kim
Các Tự ở nhiều góc cạnh. Trong không khí náo động ồn
ào của du
khách thập
phương, cùng
tử đi quanh, lặng
lẽ ngắm
nhìn ngôi chùa vàng in bóng mặt hồ. Bất chợt trong nắng hạ lấp lánh và
ngôi chùa rực
rỡ phản
chiếu trên mặt nước im, trình hiện một vầng trăng thu.
Osaka, Nhật
bản, một ngày cuối hạ năm 2019
Vĩnh Hảo
www.vinhhao.info
_______________
(1) Yukio Mishima (1925 – 1970), nhà văn cận
đại hàng đầu của Nhật
bản; tác
giả cuốn Kim
Các Tự(nguyên bản tiếng Nhật năm 1956, An Tiêm xuất bản năm 1970, Đỗ
Khánh Hoan - Nguyễn Tường Minh dịch từ bản tiếng Anh “The
Temple of the Golden Pavillion,” do Ivan Morris dịch, Charles E. Turtle Co.
xuất bản năm 1959). Mishima mổ bụng tự tử ngày 25 tháng 11 năm 1970.
(2) Thousand Cranes, bản dịch từ
tiếng Nhật sang Anh ngữ của Edward G. Seidensticker, A Perigee Book xuất bản năm
1959. Văn
hào Yasunari Kawabata (1899 – 1972) là nhà văn đầu tiên đem về giải
Nobel Văn
Chương cho Nhật
bản vào năm 1968; tác
giả của những tác
phẩm nổi
tiếng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng; trong tiếng Việt là Ngàn
Cánh Hạc, Xứ Tuyết, Cố Đô, Cái Hồ, Căn Nhà của Các Người Đẹp Đang Ngủ, Vũ Nữ Izu, Âm
Thanh của Miền Núi, v.v… Kawabata tự vẫn bằng hơi gas vào ngày 16
tháng 4 năm 1972.
(3) Nhân vật chính, xưng tôi, trong tiểu thuyết Kim
Các Tự của Yukio Mishima.