Cầu siêu – báo hiếu theo kinh Địa Tạng
cau sieu
Cầu siêu – báo hiếu theo kinh 
Địa Tạng
Thích Hạnh Chơn
 
Phật giáo Việt Nam tồn tại và phát 
triển lâu dài một phần chính yếu nhờ vào sự tín ngưỡng. Tiếp nhận kinh điển và 
các nghi thức hành trì từ chư Tổ sư Trung hoa, Phật giáo Việt Nam hầu như chỉ 
tuân hành theo các nghi thức ấy mặc dù vẫn có những thay đổi nhưng ít phổ biến. 
Từ lâu, các chùa thuộc Bắc truyền thực hành các nghi lễ cầu an và cầu siêu với 
những bài kinh quen thuộc. Về cầu siêu, hai bản kinh thường được chọn để tụng 
cầu siêu là kinh A Di Đà và kinh Địa Tạng. Kinh A Di Đà 
ngắn hơn nên thường bị xem nhẹ về hiệu quả siêu thoát mặc dù đó là một sai lầm 
đáng tiếc. Lý do là rất nhiều người căn cứ vào độ dài của kinh và thời gian tụng 
của chư Tăng Ni hành lễ hay của đạo tràng cư sĩ tại gia hơn là căn cứ nội dung 
của kinh. Bài viết sẽ tìm hiểu phương pháp cầu siêu - báo hiếu theo kinh Địa 
Tạng và sự thực hành theo sự tín ngưỡng lâu nay của quần chúng. Bài viết sử 
dụng hai bản dịch kinh Địa Tạng của HT.Thích Trí Tịnh và TT.Thích Nhật Từ 
làm cơ sở trích dẫn. 
Xuất xứ kinh Địa Tạng
Kinh Địa Tạng thuộc kinh số 
412, bộ Đại tập, theo Đại chánh tân tu Đại tạng kinh. Kinh Địa 
Tạng được tin do Đức Phật nói cho Thánh mẫu Ma Da ở cung trời Đao Lợi. Kinh 
nêu những nguyên nhân khiến chúng sinh đọa vào các cõi ác là ngạ quỷ, địa ngục. 
Đồng thời, kinh cũng đưa ra các phương pháp để cứu các chúng sanh đọa cõi ác 
được siêu thoát. Trong trường hợp người con, cháu cầu siêu cho cha mẹ, tổ tiên 
siêu thoát thì hành động ấy được xem là báo hiếu khi người thân không còn sống ở 
đời. 
Các tiền thân của Bồ-tát Địa 
Tạng
Theo bản kinh Địa Tạng, một số 
tiền thân của Bồ-tát Địa Tạng được nêu trong kinh. Đầu tiên, tiền thân của ngài 
là một triệu phú. Ngài phát nguyện khi nào giúp cho mọi loài đều được giải thoát 
thì ngài mới thành quả Phật (Kinh Địa Tạng, tr.13, 22). Thứ hai, tiền 
thân ngài là một thánh nữ cứu mẹ. Thánh nữ kiếm tiền chân chánh, dùng tiền mua 
sắm hương hoa, vật phẩm cúng dường các chùa thờ Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại 
Vương, và phát nguyện dùng nhiều phương tiện giúp cho tất cả chúng sanh thoát 
khổ (sđd., tr. 15, 21, 23, 32). Thứ ba, tiền thân ngài là vị vua thời Đức 
Phật Nhất Thế Trí Thành Tựu Như Lai phát nguyện cứu muôn loài dứt hết tội khổ 
mới chịu thành Phật (sđd., tr.40, 54). Thứ tư, tiền thân ngài là Quang 
Mục cúng dường, tạo hình tượng Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, trì niệm danh 
hiệu Phật, và phát nguyện giáo hóa hết chúng sanh trong ba đường ác: địa ngục, 
ngạ quỷ, súc sanh mới thành Phật (sđd., tr. 41-44, 56-60). Trong bốn tiền 
thân của ngài thì tiền thân một và ba là ngài tự phát nguyện giúp cho tất cả 
chúng sanh giải thoát khổ đau ở các đường ác xong mới thành Phật. Tiền thân thứ 
hai và bốn cũng phát nguyện tương tự nhưng hai trường hợp này là vì lòng hiếu 
cứu mẹ nên phát nguyện rộng lớn như vậy. Tóm lại, bốn tiền thân của Bồ-tát Địa 
Tạng đều có điểm chung là giúp cho tất cả chúng sanh thoát khổ rồi ngài mới 
thành Phật. Với lời phát nguyện rộng lớn như thế thì Bồ-tát Địa Tạng giúp chúng 
sanh giải thoát bằng cách nào theo bản kinh đã ghi?
Nguyên nhân đọa các đường ác
Có thể nói kinh Địa Tạng là 
bản kinh miêu tả khá nhiều về địa ngục hay tù ngục cũng như các hình phạt, nhưng 
nguyên nhân đưa đến đọa vào ngục trong một số trường hợp thì khá đơn giản. Trong 
kinh Tăng chi, Đức Phật dạy có 5 nghịch tội đưa đến địa ngục, gồm: “đoạt 
mạng mẹ, đoạt mạng cha, đoạt mạng vị A-la-hán, với ác tâm làm Như Lai chảy máu, 
và phá hòa hợp Tăng.” 
Kinh Địa Tạng cũng có ghi nguyên nhân đọa địa ngục thuộc 5 nghịch tội như 
giết cha, giết mẹ, huỷ hại thân Phật và thêm nhiều nguyên nhân khác như phỉ báng 
Tam bảo, trộm của thường trụ, không giữ giới… (sđd., tr. 30-31, 42-43). 
Tuy nhiên, trường hợp đọa địa ngục của thân mẫu Thánh nữ thì do mê tín, khinh 
chê Tam bảo (sđd., tr. 20); và của thân mẫu Quang Mục thì do nghiệp giết 
hại và nghiệp mắng nhiếc (sđd., tr. 43, 58). Căn cứ vào các nguyên nhân 
đưa đến đọa địa ngục thì hầu như chúng sanh đều phạm vào tội tương tự và nghiệp 
lực đưa đến địa ngục là rất có thể xảy ra. Về nguyên nhân đưa đến địa ngục, có 
rất nhiều bài kinh ghi chép lại. Ví dụ trong kinh Tăng chi, Đức Phật nêu 
năm pháp dẫn đến địa ngục gồm: “sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các 
dục, nói láo, đắm say rượu men rượu nấu.” 
Đây là 5 pháp học hay 5 giới của người Phật tử. Nói chung, cả kinh Nguyên thuỷ 
và kinh Đại thừa đều nêu nguyên nhân đưa đến địa ngục, nhưng kinh Địa Tạng 
nêu thêm việc mê tín và xúc phạm Tam bảo.
Hình phạt tại địa ngục
Hình phạt tại các địa ngục được miêu 
tả trong kinh Địa Tạng là sự mô phỏng của các hình phạt xảy ra trên cõi 
đời qua các triều đại phong kiến với các công cụ hình phạt thô sơ thời xưa, cộng 
thêm một số hình thức siêu hình ẩn dụ khác. Các hình thức đâm, chặt, chém, động 
vật cắn xé, đóng đinh, rót nước đồng sôi… xảy ra khi tra tấn và hành hình các 
tội nhân, cộng thêm yếu tố siêu hình như quỷ hành hình, lửa đốt, lạnh giá… (sđd., 
tr.33, 57). Kinh Trung bộ cũng có ghi về cảnh hành hạ ở địa ngục làm cho 
tội nhân chịu cảm thọ đau khổ như sắt nung đóng vào thân, búa chặt tội nhân, kéo 
lê thân xác… 
Nếu kinh được biên tập vào thời nay thì các công cụ hành hình tại địa ngục sẽ 
được bổ sung bằng các hình thức khác như súng bắn, kim tiêm thuốc độc… Tất cả 
các dụng cụ hành hình đều nhằm mục đích là làm cho tội nhân chịu sự đau đớn về 
cảm thọ. 
Bồ-tát Địa Tạng cứu độ chúng 
sanh
Theo kinh Địa Tạng, Bồ-tát Địa 
Tạng được tin là đã hóa độ vô lượng chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay (sđd., 
tr.10-11, 18). Kinh ghi, “Nếu thiện nam nữ nào nghe danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng 
tán thán, chiêm nghưỡng, lễ bái, trì tụng, cúng dường, sơn vẽ hình tượng Bồ-tát 
thì sẽ được sanh lên cõi trời Đao Lợi không còn đọa vào các đường dữ.” (sđd., 
tr.12, 20, 45, 61, 119); “Nếu người nam hay nữ tạo nghiệp dữ, không tin nhân 
quả, tà dâm, vọng ngữ, ác độc… mà quy y Bồ-tát Địa Tạng thì thoát ba đường dữ.” 
(sđd., tr.45, 61). Nếu hiểu theo “chữ nghĩa” thì năng lực của Bồ-tát rất lớn có 
thể làm cho chúng sanh thoát khổ. Khi còn là tiền thân, Bồ-tát phát nguyện dùng 
các phương tiện giúp cho mọi loài đều được thoát khổ trước khi ngài thành Phật (sđd., 
tr.13, 21). Bồ-tát đã phân thân khắp thế giới để độ chúng sanh (sđd., 
tr.27, 37, 44). Bồ-tát dạy chúng sanh về nhân quả như quả báo của giết hại là 
chết yểu, trộm cắp là nghèo nàn, giận dữ thì xấu xí, ăn nhậu thì bệnh tật… (sđd., 
tr.48-50). 
Theo nội dung kinh, chúng sanh thoát 
khổ là nhờ quy y, lễ bái, cúng dường Bồ-tát qua hình tượng. Kinh ghi Bồ-tát dùng 
nhiều phương tiện, phân thân hóa độ chúng sanh thoát khổ các đường dữ nhưng 
không phân tích rõ phương tiện gì hay phương pháp tu học như thế nào để chúng 
sanh nương theo tu tập để thoát khổ. Những phương pháp như cúng dường, niệm 
Phật… thì rất nhiều kinh, cả Nguyên thuỷ lẫn Đại thừa, đề cập chứ không riêng 
kinh Địa Tạng, nên ở đây không có gì đặc biệt. 
Một điều cần lưu ý là kết quả của 
việc chúng sanh làm theo lời kinh dạy là đạt được phước báu, thoát khỏi cõi dữ, 
và được tái sinh cõi trời hay cõi người. Điều này xét về giáo lý nhân quả là 
đúng, là phù hợp vì tạo phước báu thì nơi tái sanh là cõi trời hay cõi người. 
Kinh không có đề cập đế cõi Tây phương Cực lạc hay cõi tịnh độ. Do đó, một câu 
hỏi lớn là phải chăng tụng kinh Địa Tạng để người thân qua đời vãng sanh 
Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà là do tín chúng tu pháp môn Tịnh độ tự 
hiểu hay tự thêm? Kinh cũng nhấn mạnh lời phát nguyện rộng lớn của Bồ-tát là độ 
hết chúng sanh “thành Phật” rồi ngài mới thành Phật nhưng không có đoạn kinh nào 
hướng dẫn cụ thể lộ trình thực hiện cứu độ của ngài ngoài cách chỉ dạy làm phước 
và cầu nguyện như vừa nêu trên. 
Phương pháp cầu siêu-báo hiếu
Có thể nói, điểm mạnh để kinh Địa 
Tạng được sử dụng tụng vào các thời khóa cầu siêu là việc tụng kinh được tin 
sẽ làm cho người thân qua đời siêu thoát (kinh không nêu vãng sanh Cực lạc). Một 
số phương pháp được nêu ra trong kinh để cho những ai tin thực hành theo. Khi có 
người bị bệnh nặng sắp qua đời, gia đình bà con nên dùng tài sản của người bệnh 
làm điều thiện như ấn tống, xây chùa, cúng dường Tam bảo, bố thí… và cho họ biết 
việc làm ấy thì sau khi qua đời họ sẽ thoát khổ tù ngục (sđd., tr.65). 
Các hương linh nếu chưa siêu thoát thì nhờ người thân tụng kinh Địa Tạng 
3 đến 7 lần thì sẽ siêu thoát (sđd., tr.67). Nếu một người chết trong 49 
ngày được người thân làm phước hồi hướng thì hương linh thoát đường dữ sinh lên 
cõi trời (sđd., tr.75, 79). Tụng kinh cho người thân qua đời nghe thì họ 
sẽ được thoát khỏi đường dữ (sđd., tr.91). Nếu người thân vì người bệnh 
niệm Phật thì người bệnh khi chết khỏi bị quả khổ (sđd., tr.99). Các 
hương linh nếu chưa tái sanh nhờ công đức người thân chiêm lễ cúng dường Bồ-tát 
Địa Tạng sẽ được sinh về cõi trời hay cõi người. 
Điểm chung của phương pháp cầu siêu 
là nhờ sự giúp đỡ của người trong gia đình hay bà con qua việc tụng kinh Địa 
Tạng và lấy số lượng làm cơ sở siêu thoát, và qua việc làm phước. Như vậy, 
người thân chỉ việc làm chút phước báu và tự tụng hay mời người tụng kinh Địa 
Tạng cho đủ số lượng thì người thân qua đời sẽ thoát cõi khổ, sanh cõi trời 
hay cõi người (kinh không đề cập sinh Tây phương Cực lạc). Xem ra việc cầu siêu 
cũng khá đơn giản mà ai cũng làm được nhưng kết quả thực thì phần lớn dựa nào 
niềm tin hơn là nhân quả. Trong bảy phần phước báu, người chết hưởng một phần (sđd., 
tr.78) nên việc thọ hưởng và siêu thoát của họ có lẽ là khuyến khích nhiều hơn. 
Chính người tự mình làm phước, tự mình tu tập mới là điểm chính của ý kinh vì 
xác suất gấp bảy lần. 
Sự thực hành của quần chúng
Có lẽ dựa vào lời phát nguyện của 
Bồ-tát Địa Tạng qua các tiền thân được miêu tả trong kinh, dựa vào nội dung 
hướng dẫn làm phước và đặc biệt dựa vào nội dung “tụng 3 đến bảy biến kinh 
Địa Tạng thì các hương linh được giải thoát” nên nhiều tín đồ tin đã làm 
công việc tụng kinh để cầu siêu cho người qua đời. Vì Tăng Ni không có thời gian 
để thường đi tụng kinh Địa Tạng tại các tư gia, nên công việc này do các 
nhóm cư sĩ thực hiện. Và với nội dung vừa nêu trên, họ tin rằng cứ tụng đủ số 
lượng là hương linh siêu thoát. Giải thoát ở đây không phải khỏi đường ác để 
sinh cõi trời người mà là khỏi đường ác để vãng sinh Tây phương. Đây là điểm 
mạnh để các nhóm tụng kinh có cơ hội phục vụ quần chúng tín ngưỡng. 
Lời kết
Nội dung kinh Địa Tạng trình 
bày khá phong phú về cách tạo phước, nhất là lễ bái tín ngưỡng, dành cho người 
còn sống nhiều hơn người chết. Tuy nhiên, về phương diện truyền bá, có lẽ điểm 
mạnh của nội dung tín ngưỡng “tụng ba đến bảy biến hương linh siêu thoát” đã làm 
cho kinh Địa Tạng chiếm ưu thế hơn kinh A Di Đà. Từ đó, nhiều nhóm 
cư sĩ “tự tin” không cần Tăng Ni vẫn có thể giúp người qua đời siêu thoát vì căn 
cứ nội dung tín ngưỡng. Hơn nữa, sự thêm vào nội dung siêu thoát là vãng sanh 
Cực lạc làm cho bản kinh quan trọng hơn, có giá trị hơn về mặt cứu độ hương linh. 
Dẫu biết giáo pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Vô ngã là cốt lõi của đạo Phật, 
nhưng khi mà quần chúng thực hành Phật giáo bằng sự tín ngưỡng thì các giáo lý 
cốt lõi vẫn còn xa lạ và sự tín ngưỡng vẫn chiếm ưu thế. 
 
Sách Tham khảo:
Thích Trí Tịnh dịch. (2010). Kinh 
Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện. Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.
Thích Nhật Từ soạn dịch. (2016). Kinh 
Địa Tạng. Tp. Hồ Chí Minh: NXB.Hồng Đức.
Thích Minh Châu dịch. (2012). Kinh 
Trung bộ, tập 2. Hà Nội: NXB.Tôn Giáo.
Thích Minh Châu dịch. (2015). Kinh 
Tăng chi. Hà Nội: NXB.Tôn Giáo. 
	
 
	
		
		
		 
		Thích Minh Châu dịch, kinh Tăng chi, tập 1, chương 5, phẩm Bệnh, 
		mục Ngũ Nghịch, Hà Nội: NXB.Tôn Giáo, tr.738.