Những giải thích khác nhau về nghĩa của từ Vu Lan Bồn
nhung giai thich
HỮNG GIẢI
THÍCH KHÁC NHAU VỀ
NGHĨA CỦA TỪ VU
LAN BỒN[1]
Giáo sư Seishi Karashima* - Nguyên
Hiệp dịch
1. Vu
lan bồn (盂蘭盆), Vu
lan bồn kinh (盂蘭盆經), và Vu
lan kinh (盂蘭經)
Vu lan bồn (盂蘭盆) là tên của một lễ
hội Phật
giáo được tổ chức rộng
rãi ở Đông Á. Lễ
hội này được cử
hành vào cuối kỳ an
cư mùa mưa của cộng
đồng Phật
giáo, tức là vào ngày 15 tháng
Bảy âm lịch. Những vong
linh được tin sẽ quay trở
về nhà vào ngày này; và để tỏ lòng
thành kính đối với họ, người ta đặt bày phẩm vật dâng cúng lên bàn
thờ, đốt
hương và thỉnh
mời chư
Tăng tụng đọc
kinh chú, v.v. Tên của lễ
hội này được dựa
vào kinh Vu
lan bồn (盂蘭盆經, T. 16,
no. 685), được cho là do Trúc
Pháp Hộ (Dharmarakṣa, khoảng 265?-311 TL) dịch. Báo
ân phụng bồn kinh (報恩奉盆經, T.
16, no. 686), không biết người dịch, rõ
ràng là phỏng theo kinh Vu
lan bồn.[2] Tuy
nhiên, việc quy cho Trúc
Pháp Hộlà dịch giả của kinh Vu
lan bồn gây nên nghi
ngờ khi bản
kinh này được xếp loại như là một bản dịch không có tác
giả trong một danh
mục cổ, đó là Xuất
Tam tạng ký tập (出三藏記集), mà nó được biên
soạn vào thời Lương Thiên Lam (502-519 TL).[3] Lịch
đại Tam bảo ký (歴代三寶記, 597 TL) là tác
phẩmđầu tiên quy bản
kinh này cho Trúc
Pháp Hộ.[4] Yutaka
Iwamoto nghi
ngờ việc quy ghép dịch giả này và cả tính chân
thực của nó như một bản dịch từ một bản
kinh Ấn
Độ, bởi vì những cụm từ “xa lạ” chẳng hạn như đạo
nhãn (道眼), hiếu
thuận (孝順), văn như
thị (聞如是) xuất
hiện ở trong đó.[5] Tuy
nhiên, chính những cụm từ cổ này, mà sự thực chúng được tìm
thấy trong những bản dịch trước thời Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva),[6] chứng
minh rằng bản
kinh này được dịch (hoặc biên
soạn) vào thế kỷ III hoặc IV TL. Việc sử
dụng ngô/吾 như là đại
từ danh xưng ngôi thứ nhất, được tìm
thấy trong bản
kinh này, cũng hợp với việc ưu
tiên sử
dụng từ ngô thay cho ngã/我 của Trúc
Pháp Hộ.[7]
Từ thế kỷ VI về sau, những đề cập khác nhau về bản
kinh và lễ
hội này bắt đầu xuất
hiện. Những trích dẫn từ bản
kinh được sử
dụng đầu tiên ở trong Kinh
luật dị tướng (經律異相), một tuyển tập những bài viết về Phật
giáo, mà nó được những Tăng sĩ như
Bảo Xước (寶唱), Tăng
Mân (僧旻) cùng những người khác sáng
tác vào năm 516 TL.[8] Chính lễ
hội này cũng được đề cập trong Nhan
thị gia huấn (顏氏家訓), do một học
giả thời Bắc Ngụy tên là Nhan Chi Thôi (顏之推 531-591) viết.[9] Một
phần của bản văn này cũng được trích trong luận
giải của Đỗ Công Chiêm (杜公瞻, 600-?) về tác
phẩm Kinh sơ tuế thời ký (荊楚歲時記,
561) của Tông Lẫm (宗懍).[10] Theo Phật
Tổ thông kỷ (佛祖統紀, được biên
soạngiữa 1258-1269), Lương
Vũ Đế (梁武帝) đã thăm
viếng chùa Đồng Thái (同泰寺) - ngôi chùa do ông ra lệnh xây
dựng, và tổ chức trai lễ
Vu lan bồn (盂蘭盆齋) ở đó vào năm 538 TL.[11] Điều
này minh chứng sự phổ
biến của bản
kinh và lễ
hội Vu lan ở cả hai bên bờ sông Trường Giang từ thế kỷ VI trở
về sau.
Dựa trên những danh
mục kinh cổ hơn và Kinh luật
di tướng, bản
kinh cho thấy nguyên
thủy có tiêu
đềlà Vu lan kinh (盂蘭經).[12] Tiêu
đề Vu
lan bồn kinh (盂蘭盆經) chỉ xuất
hiện trong những danh
mục[13]và
những bản
kinh[14] tương
đối trễ.
2. Bản dịch
kinh Vu
lan bồn (盂蘭盆經)
Bản kinh này do Tam
tạng Pháp sư Trúc
Pháp Hộ (竺法護/Dharmarakṣa) người Nguyệt
Thị (月氏) dịch sang Hán ngữ vào đời Tây Tấn. Bản dịch Việt ngữ như sau:
Tôi nghe như vậy.[15] Một
thời, Đức
Phật cư trú tại vườn của ông Cấp
Cô Độc (Anāthapiṇḍada), ở rừng cây Kỳ-đà (Jetavana), nước Xá-vệ
(Śrāvastī).
Bấy giờ Đại Mục-kiền-liên
(大目乾連/Mahāmaudgalyāyana) vừa chứng
đắc được lục
thông, và ngài muốn cứu
độ cha
mẹ để đền đáp thâm ân trong việc nuôi
dưỡng mình. Lúc
ấy, khi dùng thiên
nhãn[16]quán
sát thế giới/gian (世間), ngài thấy rằng người mẹ quá
cố của mình sinh vào thế
giới ngạ
quỷ. Nhận
thấy vì không có thức
ăn và nước uống, bà không còn gì ngoài da
bọc xương, Mục-liên (目連/Maudgalyāyana) rất đau buồn và đi đến
(往) trao cho (餉) bà bát cơm của mình. Sau khi nhận lấy bát cơm, mẹ của ngài dùng
tay phải bóc cơm lên, trong khi dùng tay trái che
đậy nó. Tuy
nhiên, trước khi cơm được đưa vào miệng, cơm ấy hóa
thành than lửa và do đó bà không thể ăn nó. Mục-liên đau buồn than khóc
và quay
về gặp Đức
Phật, bạch với Ngài những gì đã xảy ra.
Đức Phật nói: “Vì tội
lỗi của mẹ ông có gốc rễ sâu dày, nên (một
mình) ông không thể cứu được bà. Mặc dù ông có lòng
hiếu thảo, và tiếng (than khóc) của ông lay động trời đất, (nhưng ngay
cả) thiên
thần, địa
thần, Dạ-ma (邪魔/Māra[17]),
những vị ngoại
đạo[18] hay Tứ
Đại thiên vương cũng không thể làm gì cứu được bà ấy. Ông cần nên cầu
đến oai
thần của của Tăng
chúng trong mười
phương, khi ấy bà sẽ được cứu
thoát. Bây giờ ta sẽ nói với ông cách để cứu bà, ngõ hầu bà có thể thoát
khỏi tất cả những khó
khăn, và những buồn
phiền đau
khổ (憂苦) của bà có thể được trừ
diệt.”
Thế rồi Đức
Phật nói với Mục-liên: “Khi Tăng
chúng mười
phương tham
dự lễ
Tự tứ (自恣/Pravāraṇā) vào ngày 15 tháng Bảy, người ta - vì
lợi ích của tổ
tiên trong bảy đời và cha
mẹ hiện
tại của họ, những người đang chịu khổ đau - nên sửa soạn cơm, thức
ăn một trăm vị, năm loại quả, những chiếc chậu (盆器) dùng để múc và rót
nước, hương, dầu, đèn, nến, nệm và giường; đặt những thức
ăn ngon nhất
thếgian vào trong những chiếc bát (盆), và dâng những thứ này cho mười
phương Tăng. Vào ngày đó, tất cả những vị Thánh - những người hành thiền
trong núi
rừng; những người đã chứng được Tứ
đạo quả; những người kinh
hành dưới các cội cây; những vị Thanh
văn và những bậc Duyên
giác đầy đủ lục
thông, tự
tại giáo
hóa; hoặc những vị Đại
nhân (大人 mahāsattva) là Bồ-tát Thập
địa nhưng hiện
thânlàm Tỳ-kheo - tất cả nhất
tâm thọ nhận cơm bát-hòa-la (鉢和羅飯) ở nơi đại
chúng. Những người này giữ
giới thanh
tịnh và giữ con
đường của Thánh
chúng một cách trọn
vẹn; phẩm đức của họ thì rộng lớn. Nếu người nào cúng
dường cho những vị Tăng tham
dự lễ
Tự tứ này, cha
mẹ hiện
thời và tổ
tiên bảy đời của họ, cũng như sáu loại bà
con quyến
thuộc (六種親屬), sẽ có thể giải
thoát khỏi khổ đau trong ba đường, được
giải thoát ngay tức
thời và sẽ tự
nhiên có được thức
ăn đồ mặc. Nếu cha
mẹ của người ấy còn sống, họ sẽ hưởng được phước lạc trong một trăm năm.
Nếu họ đã qua đời, (họ cũng như) tổ
tiênbảy đời sẽ sinh về cõi
trời. Họ được sinh theo ý họ muốn và đi
vào ánh sáng của thiên
hoa và thọ nhận phước lạc vô
lượng.”
Lúc đó, Đức
Phật bảo thập
phương chúng
Tăng trước hết nên chú
nguyện (呪願/dakṣiṇā) cho cha
mẹbảy đời vì
lợi ích của gia
đình thí
chủ, thực
hành thiền định và sau đó thọ nhận thực
phẩm. Sau khi nhận những chiếc bát (盆), họ trước hết nên đặt chúng phía
trước tháp Phật. Khi chúng
Tăng chú
nguyệnxong, mỗi người trong họ sau đó có thể thọ nhận
thức ăn.
Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo Mục-liên và
chúng Đại Bồ-tát tất cả đều vô
cùng hoan
hỷ và tiếng khóc than của Mục-liên hoàn
toàn chấm
dứt. Vào chính ngày hôm đó, mẹ của Mục-liên được
giải thoát khỏi kiếp khổ làm ngạ
quỷ.
Khi ấy Mục-liên lại bạch với Phật:
“Cha mẹ của con nhận được công
đức của Tam
bảo nhờ vào sức
mạnh và oai
thần của chúng
Tăng. Trong tương lai, tất cả những đệ
tử Phật, (những người muốn) thực
hành hiếu hạnh, có thể dâng bát
Vu lan (應奉盂蘭盆)[19] (cho chúng
Tăng) để cứu cha
mẹ và tổ
tiênbảy đời của họ không?
Đức Phật trả
lời: “Lành thay! Ông đã đưa ra một câu hỏi rất hay. Ông hỏi ta về điều ta
định nói với ông. Thiện
nam tử, nếu các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, vua, thái
tử, công
chúa, đại thần, tể tướng, tam công, quan chức các cấp, và dân chúng (thứ
dân) mong muốn thực
hành hiếu từ (孝慈),[20] tất
cả họ, vì
lợi ích của cha
mẹ hiện tiền-những người đã sinh ra họ[21] (所生現在父母),
cũng như vì
lợi ích của tổ
tiên bảy đời của họ, vào ngày 15 tháng Bảy, (tức là vào) ngày Đức
Phật hoan
hỷ, ngay Tự
tứ (自恣/Pravāraṇā) của Tăng
chúng, nên đặt thức
ăn đồ uống trăm vị vào trong những chiếc bát
Vu lan (以百味飮食安盂蘭盆中) và rồi dâng chúng cho chư
Tăng, những người tham
dự Tự
tứ, mong muốn rằng cha
mẹ hiện
tiền của họ sẽ sống một trăm năm không đau bệnh, không khổ đau phiền
muộn nào, tổ
tiên bay đời của họ sẽ thoát
khỏi khổ đau của ngạ
quỷ, được sinh về cõi
người và cõi
trời và hưởng được phước lạc không cùng
tận.”
Đức Phật nói:[22] “Những thiện
nam thiện nữ là đệ
tử của Phật, nếu (muốn) thực
hành hiếu, họ nên thường nghĩ nhớ đến cha
mẹ hiện
tiền và tổ
tiên bảy đời của họ.[23] Mỗi
năm, vào ngày 15 tháng Bảy, vì lòng hiếu
thuận,[24] họ
nên[25] nghĩ
về cha
mẹ của họ, người đã sinh ra họ (所生父母), và tổ
tiên bảy đời của họ. Vì
lợi ích của những người này, (họ nên) sắm sửa những chiếc bát
Vu lan và dâng chúng cho Phật và Tăng
chúng (作盂蘭盆施佛及僧), và như vậy báo
đáp được ân thương
yêu của cha
mẹ họ, những người nuôi
dưỡng họ. Tất cả những đệ
tử Phật nên phụng
hành theo lời dạy (法) này.”
Lúc bấy giờ, khi nghe những gì Đức
Phật thuyết
giảng, Tỳ-kheo Mục-liên và bốn hàng (四輩) đệ
tử[26]hoan
hỷ phụng
hành.
3. Lễ
Tự tứ và việc dâng cúng của người tại
gia
Những gì Đức
Phật dạy trong bản
kinh này là rằng, những người muốn thực
hành hiếu và cứu cha
mẹvà tổ
tiên bảy đời của họ thoát
khỏi cảnh khổ, thì vào ngày lễ
Tự tứ (自恣/Pravāraṇā), tức là vào ngày 15 tháng Bảy, nên dâng cúng thức
ăn được đặt trong những chiếc bát cho Tăng
chúng trong mười
phương, những người đang tham
dự lễ
Tự tứ. Thực
phẩm ấy được gọi là Bát-hòa-la
phạn (鉢和羅飯). Ngoài
ra, vì thức
ăn này được đặt trong những chiếc bát
Vu lan (以百味飮食安盂蘭盆中), nên chính
thứcăn đó cũng được gọi là “Vu lan bồn” (盂蘭盆).
Pravāraṇā (Pāli: Pavāraṇā), Hán
dịch là Tự
tứ (自恣) và Tùy tức (隨意), là một buổi
lễ được chư
Tăng tổ chức vào cuối ba tháng an
cư mùa mưa. Trong Phật
giáo Theravāda và ở Nepal, nó từng và vẫn được tổ chức vào ngày trăng
tròn tháng Bảy hoặc tháng Tám, tức là tháng Āśvina (tháng Chín đến tháng Mười)
hoặc tháng Kārttika (tháng Mười-tháng Mười một) - gần đầu tháng Caitra (tháng
Ba-Tư) ở Ấn
Độvà những quốc
gia Nam Á. Ở Đông Á, lễ này được tổ chức vào ngày 15 tháng Bảy hoặc tháng
Tám âm lịch, nơi năm mới bắt đầu vào tháng Giêng hoặc tháng Hai. Vào ngày
này, mỗi vị Tăng đến trước chúng
Tăng sám
hối tội
lỗi mà vị ấy có thể phạm trong kỳ an
cư mùa mưa và mong được xá tội.[27] Những thủ
tục của ngày Tự
tứ được mổ tả trong các tạng Luật (Vinaya)
khác nhau.[28]
Luật tạng Pāli nói rằng, vào ngày Tự
tứ, người dân địa phương đến trú xứ của chư
Tăng và cúng
dườngcho đến gần hết đêm.[29]
Bản dịch Tạng ngữ và Hán ngữ[30] Pravāraṇāvastu
(Tự
tứ pháp) của Căn
bản thuyết Nhất thiết hữu bộ(Mūlasarvāstivādin) cũng nói như sau, về
những người tại
gia thăm
viếng cộng
đồng Tăng
lữ với những phẩm vật cúng
dường vào ngày đó:
Ngoài ra, vào chính ngày 15, tức là ngày Tự
tứ (Pravāraṇā), vua, hoàng hậu, thái
tử, đại thần, quan lại, thị dân và dân làng cùng đi đến chùa (ārāma). Bấy
giờ nhà vua cúng
dường rất nhiều y
phục và đồ ăn thức
uống khác (āmiṣa-lābha, 諸飲食) cho Tăng
chúng; hoàng hậu, thái
tử, đại thần, quan lại, thị dân và dân làng cũng làm như vậy, cúng
dường nhiều y
phục và đồ ăn thức
uống cho Tăng
chúng. Vị Tỳ-kheo phụ
trách thuyết
pháp cũng thuyết
giảng suốt đêm.[31]
Luật tạng của Đại
chúng bộ (Mahāsāṃghika) cũng nói:
Nếu những Tỳ-kheo, những người trải
qua kỳ an
cư mùa mưa ở trong một ngôi làng, nghe rằng ở thành phố nọ có cúng
dường vật phẩm và thuyết
pháp suốt đêm vào ngày Tự
tự, và tất cả họ muốn đến (thành phố đó), họ nên thực
hiện lễ
Tự tứ vào ngày 14 và sau đó đến đó.[32]
Lại nữa, nhà chiêm
bái nổi
tiếng Trung
Quốc là Nghĩa
Tịnh (義淨, 635-713 TL), người đã đến Ấn
Độ vào cuối thế kỷ VII và tu
học ở đó 25 năm, sau đó quay trở
về Trung
Quốc và dịch nhiều kinh-luật, đã mô
tảchi tiết lễ
Tự tứ mà ông đã chứng
kiến ở trong Nam hải ký ky nội
pháp truyện (南海寄歸内法傳).[33] Ở
chương XV, Về ngày Tự
tứ, ông miêu
tả như sau:[34]
Vào ngày kỳ an cứ kết
thúc và hết năm, nên tùy
ý[35] chỉ
ra những lỗi
lầm của người khác, như mình muốn, theo ba điểm (đó là những gì mình
thấy, nghe và nghi). Rồi theo sự nhận
tội và sám
hối. Trước đó Pravāraṇā được dịch là tự
tứ (自恣),[36] tức
theo nghĩa của nó là “tùy ý”.
Vào đêm mười bốn, hội
chúng mời một vị giáo
thọ an tọa trên một chỗ ngồi cao và tụng một bản
kinh, khi ấy những cư
sĩ tại
gia cũng như chư
Tăng tụ hội lại với
nhau giống như mây (quần tụ lại). Họ liên
tụcđốt đèn và dâng cúng hương
hoa. Vào buổi sáng tiếp
theo, tất cả họ đi quanh làng và thành phố và phụng cúng tất cả điện thờ
(kaitya) với tâm
thành kính.
Họ mang những chiếc xe ngựa có tầng,
những bức tượng trong những chiếc kiệu; trống và âm
nhạcvang vọng cả bầu trời, cờ phướn và dù lộng được kéo lên cao theo thứ
bậc cân đối; điều này được gọi là sāmagrī, mà nó được dịch là “hòa hợp” hay “tụ
hội cùng nhau”. Tất cả những ngày Upasatha lớn là những ngày giống như ngày này.
Điều này là những gì ở Trung
Quốc chúng
ta gọi là “Lễ diễu hành quanh phố”. Vào đầu buổi sáng (9-11h), họ trở
lại tu
viện. Vào buổi trưa họ tiếp
tục lễ Upavasatha lớn, và vào buổi chiều tất cả tập họp lại, mỗi người
nắm một búi cây cói tươi. Cầm bằng tay hay lấy chân dẫm lên trên nó tùy
theo họ muốn, đầu tiên là những vị Tỳ-kheo, kế
tiếp là Tỳ-kheo-ni, sau đó là ba lớp thành viên thấp hơn. Nếu sợ rằng thời
gian kéo quá dài do đông người, Tăng
đoàn sẽ chỉ
dẫn cho nhiều thành viên đi cùng nhau và nhận lễ Pravāraṇa. Mỗi khi ai đó
bị chỉ ra phạm
tội, người ấy sẽ sám
hối theo luật.
Vào lúc này, người cư
sĩ tại
gia hoặc phát quà, hoặc chính Tăng
đoàn sẽ phát, và tất cả các
loại quà được mang ra trước hội
chúng. Bấy giờ năm vị cao đức nên hỏi những những vị Thượng tọa/Sthavira (其五徳應問上坐云):
“Những thứ này có thể cúng
dường cho thành viên của Tăng
đoàn và họ có thể sở
hữu chúng hay không?” Những vị Thượng
tọa (là những người đứng
đầu hội
chúng) trả
lời: “Vâng, họ có thể”. Sau đó tất cả y áo, dao, kim, dùi v.v… được nhận
và được phát đồng
đều. Như vậy là lời dạy (của Đức
Phật). Lý
do tại sao họ tặng kim và dùi vào ngày này là vì rằng họ muốn người nhận
có được hiểu
biết và trí
tuệ sắc bén. Khi lễ
Tự tứ ấy kết
thúc, tất cả theo đường của họ mà về. Nếu họ thực
hiện đầy đủ thời
gian cư
ngụ vào mùa hè thì không cần
phải trải
qua một đêm ở đó. Điều này được giải
thích đầy đủ nơi
khác, và tôi sẽ không nói chi
tiết ở đây.
Như vậy, rõ
ràng là ở Ấn
Độ, dân chúng đã cúng
dường vào ngày lễ
Tự tứ, như được nói trong kinh Vu
lan bồn.
Trong Phật
giáo Theravāda, lễ
Tự tứ vẫn được tổ chức vào ngày này. Nó được gọi là Wan Ok Phansa trong
tiếng Thái và Boun Awk Phansa trong tiếng Lào. Nó cũng được đề cập đến như là
Mahāpavāraṇā. Ngày này rơi vào ngày trăng tròn tháng trăng thứ 11 (tháng 10).
Vào lúc bình minh hay buổi sáng, người tại
gia đến chùa cúng
dường thực
phẩm và những vật
dụng thiết yếu khác cho chư
Tăng để cầu phước; và chư
Tăng đáp
lại việc cúng
dường ấy bằng việc thuyết
pháp cho họ. Vào buổi tối, hoặc có những buổi rước đèn được tổ chức quanh
các ngôi chùa hoặc dân chúng thả những “chiếc thuyền” nhỏ được làm bằng thân
hoặc lá chuối, trang trí bằng đèn nến và hoa, thả xuống sông hay suối.[37]
4. Hiếu, cứu
độ cha
mẹ và tổ
tiên quá
vãng
Kinh Vu
lan bồn thường bị xem là một ngụy tác. Một trong những lý
do cho việc quy ghép này là vì hiếu
thuận (孝順) được đề cao trong bản
kinh này. Quan
điểm rằng hiếu là tư
tưởng đặc trưng của truyền
thống Trung
Quốc và xa
lạ với Phật
giáo thường được tìm
thấy trong những cuốn sách và bài viết về Phật
giáo. Tuy
nhiên điều này không đúng.[38] Ví
dụ, kinh Giáo
thọ Thi-ca-la-việt (Siṅgālovāda-sutta)
thuộc Trường
bộ (Dīghanikāya), mà nó có những bản tương
ứng bằng tiếng Sanskrit và Hán ngữ của những tông
phái khác nhau,[39] miêu
tả bổn phận của người cư
sĩ đối với cha
mẹ của mình như sau:
Bằng năm cách một người con nên chăm
sóc cha
mẹ của mình như phương Đông: (Người con nên nghĩ): “Đã từng được cha
mẹ nuôi nấng, bây giờ ta phải nuối nấng cha
mẹ; ta phải thực
hiện những bổn phận của mình đối với họ; ta phải giữ
gìn dòng
dõi gia
đình; ta phải quản
lý tài
sản thừa
kế (một cách đúng
đắn); ta phải dâng cúng cho cha
mẹ khi họ qua đời (petānaṃ kālakatānaṃ dakkhiṇaṃanuppadassāmi). (DN III
189.5-9).
Lại nữa, chúng
ta thấy một số bản chữ khắc bằng tiếng Kharoṣṭhī từ Ấn
Độ và Pakistan nói rằng người ta xây chùa và tạc
tượng cúng
dường cho Tăng
đoàn vì cha
mẹ quá
vãng của họ.[40] Ví
dụ, một bản khắc chữ Kharoṣṭhī nơi bệ một bức tượng Bồ-tát được cho là từ Landi
Kotal (một thành phố nhỏ nằm trên đỉnh Khyber Pass) ở Pakistan đã viết như sau:
Một sự cúng
dường cho các Tăng
đoàn (trong bốn phương). Đây là một sự dâng cúng (pūjā) vì cha
mẹquá cố (của chúng
tôi)! Đây là một sự dâng cúng (pūjā) vì đạo
sư Saṃghārāma quá vãng![41]
Cứu độ cha
mẹ quá
vãng ở nơi thế
giới preta (quỷ đói) đôi khi được xem là xa
lạ đối với Phật
giáo Ấn
Độ. Tuy
nhiên, Takashi Irisawa (1990: 154) và Akira Fujimoto (2003) đã chỉ ra
rằng, có những câu
chuyện trong văn
học Pāli và Sanskrit đã mô
tả việc những đệ
tử Phật cứu
độ các preta.
Trong Petavatthu, chúng
ta thấy có một câu
chuyện giống với kinh Vu
lan bồn, đó là Sāriputtattherassa
mātupetīvatthu (Chuyện người mẹ Petī của Trưởng
lão Xá-lợi-phất; Pv, no. 14), ở đó Xá-lợi-phất (Sāriputta, Śāriputra) đã
cứu mẹ của mình, người tái
sinh làm một nữ quỷ (petī),
bị khổ sở vì đói
khát và ăn máu
mủ của người lẫn thú
vật. Bà kêu cầu con bà là Xá-lợi-phất hãy cứu bà: “Con
ơi, hãy bố
thí cho mẹ, và khi con bố
thí cho mẹ (uddisāhi me) - chắc
chắn rằng khi ấy mẹ sẽ không còn phải ăn máu
mủnữa”.[42] Sau
khi nghe mẹ nói, Xá-lợi-phất “dựng
bốn túp lều và dâng những túp lều đó cùng với thức
ăn đồ uống cho Tăng
đoàn trong bốn phương và sau đó hồi
hướng việc bố
thí đó cho mẹ của mình (mātu dakkhiṇāya ādisi). Ngay khi ông hồi
hướng việc
làm này, kết quả liền có mặt. Thức
ăn, đồ uống và y
phục là kết quả của sự bố
thí này (dakkhiṇāya). Ngay sau đó, người mẹ trở nên sạch sẽ, được khoác
áo quần mới sạch, mang những thứ xinh
đẹp hơn đồ của xứ Kāsi (Ca-thi)…”.[43]
Ngoài ra, Irisawa (1990: 154) cũng cho
biết rằng có những câu
chuyện ở trong Avadānaśataka (nos.
41-45 = T. 4, no. 200, 222b-224c)
có những mô-típ giống như kinh Vu
lan bồn. Đặc
biệt câu
chuyện số 45 (Avś I 256f.) rất giống với bản
kinh này. Câu
chuyện kể rằng Mục-kiền-liên (Maudgalyāyana) đã gặp năm trăm preta trên
đường đến Rājagṛha. Những vị này đã giải
thích cho ngài cách họ trở
thành những preta và yêu
cầu ngài truyền
đạt cho bà
con của họ ở Rājagṛha về quả bảo những việc
làm xấu ác của họ. Họ cũng yêu
cầu ngài đề nghị bà
con của họ “tùy hỷ cúng dường” (chandakabhikṣaṇaṃ)[44] thực
phẩm cho Tăng
đoàn với Đức
Phật là người đứng
đầu, và vì họ mà hồi
hướng phước
đức có được từ những việc bố
thí này (asmākaṃ nāmnā
dakṣiṇādeśanāṃ kārayitvā),[45] để
họ có thể giải
thoát khỏi cảnh
giới preta.[46] Sau
khi đồng
ý làm như vậy, Mục-kiền-liên viếng thăm bà
con của các preta này và bảo họ chuẩn bị “tùy hỷ cúng dường” và thỉnh
mời Tăng
đoàn với Đức
Phật là người đứng
đầu đến vào ngày hôm sau. Sau khi đã làm như vậy, ngài bảo với cả các
preta và thân
quyến của họ rằng họ sẽ gặp
nhau vào ngày hôm sau.
Vào sáng hôm sau, khi thực
phẩm được chuẩn bị và đúng giờ đã định, các preta không xuất
hiện. Mục-kiền-liên cố dùng thần
lực tìm
kiếm họ nhưng không có kết quả; ngài không nhìn thấy họ bất kỳ nơi đâu
trong toàn thế
giới. Lo
lắng, ngài đến gặp Phật và bạch với Phật rằng ngài không thể nhìn thấy
những người bố
thí (dānapati). Đức
Phật trả
lời rằng họ đã bị ngọn gió
nghiệp (karmavāyu) thổi
bay đi và rằng có vô
số thế
giới mà nó vượt
qua khả năng nhìn thấy của các Thanh
văn và Bích
Chi Phật. Sau đó, nhờ vào năng
lực thần
thông của Phật, các preta nhìn thấy cảnh Đức
Phật và chư
Tăng đang thọ thực. Các preta cũng nhớ lại việc những người thân của họ
vì họ mà cúng
dường cho Đức
Phật và chư
Tăng. Sau đó, Đức
Phật hồi
hướng phước
đức bố
thí (dakṣiṇām ādiśati) như
sau: “Nguyện hồi
hướng phước
đứcbố thí này đến các preta! Nguyện họ sẽ thoát
khỏi thế
giới preta đáng sợ!” Nhờ tin vào Đức
Phật, những preta đã sinh vào cõi
trời Tam thập tam (Trāyastriṃśat) sau khi mạng
chung.
Như vậy, hiếu và cứu
độ cha
mẹ và tổ
tiên quá
vãng, như được miêu
tả trong kinh Vu
lan bồn, mà nó thường được xem là xa
lạ với Phật
giáo Ấn
Độ, sự thực được chứng thực rõ nguồn văn
học của nó.
5. Những giải
thích thức trước đây về Vu
lan bồn (盂蘭盆)
5.1. Giải
thích của Huyền
Ứng (玄應)
Nghĩa của Vu
lan bồn đã được thảo
luận rộng
rãi hơn một
thế kỷ, và một số lượng lớn các bài viết và sách vở nhằm giải
quyết từ
ngữ khó hiểu này đã được xuất bản. Tôi sẽ không liệt
kê những nghiên
cứuđó và thay vì
vậy xin giới
thiệu cho độc
giả quan
tâm những tác
giả sau để đọc thêm: Ashikaga 1951, Teiser 1988: 21-25, và Irisawa 1990:
159-166.[47] Tất
cả những bối
rối quanh nghĩa của từ này xuất
phát từ giải
thích sai lầm của Huyền
Ứng trong Nhất
thiết kinh âm nghĩa (一切經音義), mà nó được xuất bản vào năm 650 TL. Giải
thích của ông về từ này như sau:
Vu lan bồn (盂蘭盆). Từ này bị sai. Hình
thức đúng là Ô-lam-bà-noa (烏藍婆拏), có nghĩa là “treo ngược”. Theo phong
tục Ấn
độ, vào ngày Tự
tứ (Pravāraṇā) của Tăng
đoàn, (những người tại
gia) chuẩn bị nhiều thí phẩm và cúng
dường cho Tăng
đoàn để tổ
tiên quá
vãng của họ được cứu
thoát khỏi sự đau
đớncùng cực của việc bị treo
ngược. Do đó, một quyển sách thế
tục ở đó (tức ở Ấn
Độ) nói: “Nếu một thân
quyến quá
vãng đã phạm những tội
ác, và vị ấy không có con cháu, và không có ai phụng cúng chư thần
linh để thỉnh
cầu họ cứu giúp người ấy, thì người ấy sẽ chịu khổ đau cùng cực của việc
bị treo
ngược ở trong quỷ giới.” Mặc dù các Phật
tử không theo những tập tục thế
gian như vậy và không thực
hiện nghi
lễ này, họ dạy (dân chúng) gieo trồng phước
đức sâu vào cánh đồng Tam
bảo. Về truyền
thống, người ta nói rằng Vu
lan bồn[48] là
một cái chậu chứa đựng thức
ăn. Giải
thích này sai.[49]
5.2. Những giải
thích hiện
đại
Thời hiện
đại, những học
giả Phật giáo đã có hơn 130 năm nghiên
cứu về hình
thức Sanskrit của từ Ô-lam-bà-noa (烏藍婆拏) cũng như Vu
lan bồn (盂蘭盆), bắt đầu với Bunyiu Nanjio (南條文雄), người tái dựng lại từ
Ô-lam-bà-noa như là Ullambana (Skt.
Avalambana: treo ngược?) trong danh
mục kinh
điểnPhật giáo nổi
tiếng của ông.[50] Việc
tái dựng này đến từ tiếng Pāli Ullumpana (cứu,
giúp) của những học
giả Nhật
Bản khác. Cũng có những học
giả khẳng định rằng Vu
lan bồn có thể là urvan (linh
hồn) trong tiếng Sogdia (tiếng Ba Tư cổ), ulavān (
<artavān māh; tên của tháng đầu tiên trong năm của Iran), hay hufrawardān ([lễ
cúng] những người quá
vãng) trong tiếng Iran.
5.3. Giải
thích của Huyền
Ứng là không đáng
tin cậy
Có hai sự nhầm lẫn cơ bản mà chúng đã gây nên sự tranh
luận như vậy tập trung quanh từ nguyên Vu
lan bồn. Thứ nhất là những học
giả quá
tin vào Nhất
thiết kinh âm nghĩa của Huyền
Ứng. Là phụ
tá của Huyền
Trang, Huyền
Ứng tham
gia vào việc phiên
dịch kinh Phật tiếng Sanskrit sang Hán ngữ và biên
soạn Nhất
thiết kinh âm nghĩa, bao
gồm 25 quyển, theo lệnh của triều đình. Ở nơi tác
phẩm chú
giảithuật ngữ đồ sộ này, ông bình
luận về 450 bản
kinh Hán ngữ bằng việc giải
thích những từ, cụm từ và phiên âm Hán ngữ khó. Hẳn nhiên là ông có một hiểu
biết rất vững về tiếng Sanskrit. Tuy
nhiên, vấn
đềlà, ông hầu như chỉ biết mỗi tiếng Sanskrit mà không biết những ngôn
ngữ Trung
Ấn khác, đặc
biệt tiếng Gāndhārī, mà nó có thời được sử
dụng rộng
rãi trong nhiều bản
kinh Phật nhưng sau đó không được sử
dụng lâu trước thời của ông. Do đó, những nhận
xét của ông về những bản dịch cổ hơn thường bỏ qua điểm này, như tôi đã
chỉ ra ở nơi
khác.[51] Ví
dụ, những nhận
xét xủa ông về mã não/馬腦 = 瑪瑙 là như sau:
Mã não/馬腦: Tiếng Sanskrit là
Mô-tát-la-yết-bà/謨薩羅掲婆 (musalagarbha). Mô-tát-la/謨薩羅 (musala) có nghĩa là “cái
chày” trong Hán ngữ; yết-bà/掲婆 (garbha) có nghĩa là “kho chứa” trong Hán ngữ. Nó
cũng có nghĩa là “mầm phôi”, đề cập đến tính rắn chắc của nó (tức của mã
não). Trong quá
khứ, nó cũng được gọi là ma-sa-la-cà-lệ/摩娑羅伽隸 (masāragalla), hay
mục-tát-la-cà-la-bà/目薩羅伽羅婆(musāragalva). Nó được dịch là mã não/馬 腦. Tôi cho
rằng nó được gọi như vậy bởi vì màu sắc của loại đá quý này đôi khi giống với
màu sắc của óc/não con ngựa. Tuy
nhiên, nơi các từ điển, từ thạch/石 được thêm vào những chữ này và do đó
chúng được viết là 碼碯 để cho
biết rằng đó là một loại đá.[52]
Như vậy, Huyền
Ứng giải
thích mã não/馬腦 là một sự dịch nghĩa từ Sanskrit musalagarbha (=
musāragarbha, masāragarbha, musāragalva; thạch anh tím?),[53] và nhận
xét rằng nó được gọi như vậy bởi vì màu sắc của nó giống với óc/não của
một con ngựa! Sự giải
thích kỳ lạ này thậm chí vẫn còn được sử
dụng cho
đến ngày nay.[54] Tuy
nhiên, trong thực
tế, mã não/馬腦 (đá mã
não) là một sự phiên
dịch từ Sanskrit aśmagarbha (ngọc lục
bảo), và hình
thức khác của nó aśvagarbha,
được tìm
thấy trong những bản
kinh cổ hơn.[55] Một
dịch giả Trung
Quốc cổ đại có thể dịch từ này như là bao
gồm aśva(ngựa) và garbha (bào
thai; cái bên trong của thứ gì đó; một khoảng trống bên trong; phôi thai)
và như vậy đã dịch nó là mã não/馬 腦, có nghĩa
đen là “não của một con ngựa”. Vị ấy có thể đã dịch garbha là
não/腦 bởi vì hình thù của não thì giống như một phôi thai trong bào
thai.
Huyền Ứng cũng giải
thích sát/刹, cấu trúc hình đĩa nhiều tầng bên trên một ngôi tháp, là một
sự phiên âm từ Sanskrit kṣetra (cánh
đồng) và thực
hiện một nghiên
cứu kỹ lưỡng về từ này. Tuy
nhiên, như tôi đã chỉ ra nơi
khác, chữ sát/刹 là một sự phiên âm từ Sanskrit chattra (cái
dù/lọng, một cấu trúc hình đĩa ở trên một ngôi tháp).[56]
Như vậy, kiến
thức của Huyền
Ứng về những ngôn
ngữ Ấn
Độ là hoàn
toàn đáng nghi
ngờ. Giải
thíchcủa ông về Vu lan bồn/盂蘭盆 cũng là một trong nhiều giải
thích kỳ dị của ông. Như vậy, những thuyết hiện
đại được nói ở trên liên
quan đến thuật
ngữ này mà chúng căn cứ từ việc tái dựng mơ
hồ của ông, do vậy không có cơ sở.
5.4. Cần đọc chính bản
kinh
Nhầm lẫn thứ hai, mà nó đã gây ra rất nhiều lẫn
lộn xung
quanh nghĩa Vu
lan bồn, là rằng hầu hết các học
giả đã nghiên
cứu từ Vu
lan bồn ở bên ngoài ngữ cảnh ban
đầu của nó. Nếu nó có nghĩa là “treo ngược, “cứu vớt”, “linh hồn”, tên
gọi một tháng hay một lễ
hội, vậy
thì cụm từ “dĩ bách
vị ẩm thực an Vu
lan bồn trung/以百味飮食安盂蘭盆中” (đặt thức
ăn đồ uống một trăm vị vào trong Vu
lan bồn) có thể giải
thích thế nào? Như chúng
ta sẽ thấy ở sau, Vu
lan bồn rõ
ràng có nghĩa là một cái chậu ở nơi ngữ cảnh ban
đầu của nó.
6. Nghĩa của Vu lan/盂蘭 và Vu lan
bồn/盂蘭盆
Như chúng
ta đã thấy ở trên, bản
kinh này có tiêu
đề là Vu lan kinh/盂蘭經,
trong khi tên gọi Vu
lan bồn kinh/盂蘭盆經 xuất
hiện lần đầu không sớm hơn năm 695 TL ở trong Đại
Chu san định chúng kinh mục lục/大周刊定衆經目録.[57] Sự
thật này cho thấy rằng chúng
ta không nên giải
thích cụm từ này như là một từ duy
nhất mà như một từ ghép bao
gồm Vu lan/盂蘭 và bồn/盆.
Như được đề cập ở trước, từ Vu
lan bồn/盂蘭盆 xuất
hiện ba lần trong bản
kinh, đó là:
(1) Ưng phụng Vu
lan bồn/應奉盂蘭盆: (Những người mong muốn thực
hành hiếu hạnh) nên dâng những chiếc bát
Vu lan (cho Tăng
chúng).
(2) Dĩ bách
vị ẩm thực an Vu
lan bồn trung/以百味飮食安盂蘭盆中: (Những người mong muốn thực
hànhhiếu hạnh nên) đặt thức
ăn đồ uống trăm vị vào những chiếc bát
Vu lan.
(3) Tác Vu
lan bồn thí Phật cập Tăng/作盂蘭盆施佛及僧: (Những người mong muốn thực
hành hiếu hạnh nên) chuẩn bị những chiếc bát
Vu lan và dâng chúng cho Đức
Phật và Tăng
chúng.
Từ đoạn hai, rõ
ràng rằng Vu lan bồn/盂蘭盆 là một loại chậu đựng thức
ăn. Do đó, bồn/盆 ở trong từ ghép này đơn
giản có nghĩa là “bát” như ở nơi cách dùng Hán ngữ thông thường. Từ đoạn
một và hai, rõ
ràng rằng một chiếc bát có thức
ăn bên trong, được dâng cho Đức
Phật và Tăng
đoàn vào dịp Tự
tứ(Pravāraṇā), được gọi là một “chiếc bát
Vu lan” (盂蘭盆).
Hầu như chắc
chắn rằng Vu lan/盂蘭 là một sự phiên âm.[58] Vì,
ngoại trừ Vu lan/盂蘭, không hề có trường
hợp chữ bồn/盂 được sử
dụng như một sự phiên âm trong toàn
bộ kinh
điển Phật
giáo, do đó khó để đoán định hình
thức gốc của nó. Tuy
nhiên, có một chữ, mà nó giống như chữ vu/盂, thuộc về phân loại ngư/魚
trong Hán ngữ cổ đại và vần ngu/虞 trong Hán ngữ trung đại, đó là cù/瞿 (cũng
được phát
âm là cụ). Trúc
Pháp Hộ và những dịch giả đầu tiên khác đã sử
dụng chữ cù/瞿 này để dịch từ Sanskrit go và ko;
chẳng hạn Cù-đàm-di 瞿曇彌 (Pā. Gotamī, Skt. Gautamī; T.
9, no. 263; 286 TL), Cù-đàm-ma/瞿曇摩 (Pā. Gotama, Skt. Gautama; T.
1, no. 1, 107b15 v.v…; 412-413 TL), Cù-xá-lợi/瞿舍利 (BHS. Gośālī; ib. 107b15),
Cù-di/瞿夷 (Skt = Pā. Gopikā; ib. 63c3), Cù-ba-lê/瞿波梨 (BHS. Kokālika; ib. 126a16).[59]
Do đó, từ chữ Vu lan/盂蘭, ta có thể giả
định olān(ā), olāṇ(ā),
orān(ā), orāṇ(ā) như là hình
thức gốc của nó. Đáng tiếc, không hề có hình
thức Ấn
Độ như vậy
mà nó tạo nên nghĩa trong ngữ cảnh này. Như chúng
ta đã thấy ở trên, Vu lan/盂蘭 là một thuộc ngữ của bồn/盆, một cái chậu. Nó
có thể là một tính từ như “tuyệt vời, vĩ đại, bằng gỗ, bằng sắt” v.v, hay một
danh từ mà nó chỉ cho một nơi chốn hay một dịp lễ (chẳng hạn như tên một lễ
hội). Cũng có thể rằng nó có nghĩa là thứ ở bên trong một chiếc bát,
chẳng hạn như “bát (nước), bát (cà-ri), bát (cơm)” v.v, và phần ở bên trong này
phải là một thứ cúng
dườngcho Tăng
đoàn vào ngày Tự
tứ. Sự lựa
chọn cuối (tức là cơm), theo tôi, hợp
lý hơn những khả năng khác.
Như vậy, câu hỏi tiếp
theo ở đây là: thứ gì đã và vẫn được dâng cúng trong những chiếc bát như
vậy vào dịp lễ
Tự tứ ở Ấn
Độ, ở những quốc
gia Phật
giáo Theravāda và Đông Á? Thứ phổ
biến nhất và có khả năng nhất là cơm, mà nó được gọi là odana trong
tiếng Sanskrit và Pāli. Odana là thực
phẩm được cúng
dường khi các Tỳ-kheo được mời thọ trai. Ví dụ, ở trong kinh Prātimokṣa (Pāli:
Pātimokkha), bản
kinh có niên đại sớm nhất, odana có
nghĩa là “cơm nấu”, được đề cập cùng với sūpa (súp)
và vyañjana(đồ gia vị), là những
thứ được dâng cúng cho chư
Tăng.[60] Odana như
thí phẩm xuất
hiện mọi
nơitrong văn
học Pāli và Sanskrit.[61] Odana là
cơm nấu khô,[62] mặc
dù đôi khi nó được định nghĩa là “cháo đặc”.
Nơi ngôn
ngữ Trung
Ấn, bao
gồm Pāli and Gāndhārī, -d- thỉnh
thoảng được đổi thành -l-,[63] chẳng
hạn từ Sanskrit ādīpayati được
đổi thành từ Pāli ālimpeti; từ
Sanskrit kumuda được đổi thành
tiếng Gāndhārī là kumula. Cũng có
khá nhiều sự phiên âm Hán ngữ cổ mà chúng cho thấy sự phát triển này nơi những ngôn
ngữ cơ sở, chẳng hạn như câu-văn-la/拘文羅/
(Gā. kumula đổi thành Skt. kumuda)
trong bản dịch Hán ngữ kinh Aṣṭasāhasrikā
Prajñāpāramitā của Chi-lâu-ca-sấm (179 TL)[64].
Sau đây là những trường
hợp từ việc chuyển dịch Hán ngữ kinh Trường
A-hàm (Dīrghāgama, T. 1, no.
1; 413 C.E.): cà-cà-la/伽伽羅
(13a13, 34b8), cà-câu-la/伽拘羅
(128a1) < BHS Kakuda, Skt. Kakudha; na-la/那羅
(34c27) < Pā. Nādikā; già-lam/ 伽
藍; phù/浮 (115b26) < kadamba; ba-na-lô/波那攎
(80a11) < Pā. Panādo, Skt. Praṇādaḥ; bố-trá-bà-lâu/布吒婆樓
< Pā. Poṭṭhapādo).[65]
Trong những bản dịch Hán ngữ sơ kỳ, âm cuối của một từ nói chung không được
phiên âm, chẳng hạn A-hàm/阿含 <
Skt. Āgama; A-nan/阿難 < Skt. Ānanda; Nê-hoàn/泥洹
< Skt. Nirvāṇa; An-ban/安般 < Skt. Ānāpāna,v.v.
Do đó, chắc
chắn rằng Vu lan/盂蘭 là một sự phiên âm từ chữ olana thuộc
một ngôn
ngữ Trung
Ấn có gốc từ tiếng Sanskrit là odana,
và Vu lan bồn/盂蘭盆 có thể có nghĩa là “một chiếc bát đựng cơm”, tức là “một bát
cơm”.[66] Odana
ở trong từ ghép này chắc hẳn được phiên âm để xác định rằng đây không phải là
bát cơm bình
thường mà bát cơm đặc
biệt được sử
dụng cho buổi
lễ. Do đó, tiêu
đề nguyên
thủycủa bản
kinh này, Vu lan kinh, có
thể có nghĩa là “Odana sutra”,
hay “Kinh nói về cơm”, trong khi Vu
lan bồn kinh có thể là “Kinh
nói về bát cơm”.
7. Vu
lan bồn kinh/盂蘭盆經 không phải là ngụy tác
Mặc dù kinh này thường được xem là ngụy tác, nhưng nội dung và tư
tưởng trong đó có gốc rễ vững
chắc ở nơi Ấn
Độ như chúng
ta đã thấy ở trên. Ngoài
ra, từ
ngữ và cách dùng từ Hán ngữ thì cổ xưa, được so
sánh với những bản dịch cốt yếu của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva 401-413
TL), trong khi chúng rất giống với những bản dịch của Trúc
Pháp Hộ (Dharmarakṣa, khoảng 265?-311 TL). Thêm nữa, sự phiên âm
bát-hòa-la/鉢和羅 của từ Sanskrit pravāra(ṇā), mà nó chỉ xuất
hiện trong kinh này và phỏng tác của nó là Báo
ân phụng bồn kinh/報恩奉盆經 (T.
16, no. 686, 780a20), cho thấy rõ rằng kinh này không phải là ngụy tác mà là một
bản dịch chân
thực, bởi vì chỉ những ai biết được hình
thức nguyên
thủy Ấn
Độ của nó mới có thể phiên âm nó một cách chính
xác như vậy sang Hán ngữ.[67]
Tóm lại, tôi cho rằng kinh này không phải là ngụy tác, mà là một bản dịch
từ một bản văn
Ấn Độ được dịch bởi Trúc
Pháp Hộ hoặc người nào đó trước thời Cưu-ma-la-thập.
* Làm việc tại Viện Nghiên
cứu Quốc tế Phật
học Nâng
cao, Đại
học Soka, Nhật
Bản (創価大学国際仏教学高等研究所; The International Research Institute for Advanced
Buddhology, Soka University).
Nguồn: 創価大学・国際仏教学高等研究所・年報 (Annual
Report of The International Research Institute for Advanced Buddhology at Soka
University for the Academic Year 2012), vol. XVI, March 2013, pp.289-305.
Giáo sư Seishi Karashima* - Nguyên
Hiệp dịch
[1] Tiêu
đề của bài viết là “The Meaning of Yulanpen 盂蘭盆 - ‘Rice Bowl’ on
Pravāraṇā Day” (Nghĩa của Vu
lan bồn - “Bát cơm” Ngày Tự
tứ). Tiêu
đề bản dịch tiếng Việt này do người dịch đặt.
[2] Những bản dịch Anh ngữ của những bản
kinh này được thấy trong Teiser 1988: 49f.
[6] Từ đạo nhãn/道眼 xuất
hiện gần 100 lần trong những bản dịch Hán ngữ sơ kỳ từ thời Đông
Hán. Trúc
Pháp Hộ (Dharmarakṣa) cũng sử
dụng từ này nơi bản dịch
kinh Pháp
hoa của ông. Tham
chiếuKrsh (1998) 92. Từ hiếu thuận/孝順 được tìm
thấy hơn 200 lần trong những bản dịch trước thời Cưu-ma-la-thập
(Kumārajīva). Ngoài
ra, hầu hết những bản dịch trước thời Cưu-ma-la-thập bắt đầu với
văn như thị/聞如是 thay vì ngã văn như thị/我聞如是. Như vậy, những nghi
ngờ của Iwamoto về bản
kinh này là không có căn cứ.
[7] Xem Seishi Karashima, A
Study of the Language of Early Chinese Buddhist Translations: A
Comparison between the Translations by Lokakṣema and Zhi Qian.
[8] T. 53, no. 2121,
73c21-74a5.
[9] 《顏氏家訓・終制篇》 “有時齋供,及七月半盂蘭盆,望於汝.”
[10] Một bản dịch Anh ngữ được tìm
thấy trong Teiser 1988: 56f.
[11] T.49, no. 2035,
351a26.
[12] Xuất
Tam tạng ký tập/出三藏記集 (502-519 C.E.), T.
55, 28c2. 盂蘭經一卷; Lịch
đại Tam bảo ký/歴代三寶記 (597 C.E.), T.
49, 64a28. do.; Đại
Đường nội điển lục/大唐內典錄 (664 C.E.), T.
55, no. 2149, 235a17. do. (=242c15); Cổ
kim thích kinh đồ ký/古今譯經圖記 (664 + C.E.), T.
55, no. 2151, 354a13f. do.; Kinh
luật dị tướng/ 經律異相 T.
53, no. 2121, 74a5. Xuất Vu
lan kinh/出盂蘭經 (Từ Vu lan kinh).
[13] Đại
Chu san định chúng kinh mục lục/大周刊定衆經目録 (695 C.E.), T. 55,
no. 2153, 431c5. 盂蘭盆經一卷 (= 469b24); Khai
Nguyên thích giáo lục/開元釋教録 (730 C.E.), T.
55, no. 2154, 494c2. Vu
lan bồn kinh nhất quyển diệc vân vu lan kinh/盂蘭盆經一卷亦云盂蘭經 (=
685a23, 707b15); Trinh
Nguyên tân định thích giáo mục lục/貞元新定釋教目録 (800 C.E.), T.
55, no. 2157, 791c31. Vu
lan bồn kinh nhất quyển diệc trực vân vu lan kinh/盂蘭盆經一卷亦直云盂蘭經
(= 928a15).
[14] Ví dụ, Phật
thuyết Vu
lan bồn kinh sớ/佛説盂蘭盆經疏 của Tông Mật/宗密 (780-841 C.E.), T.
39, no. 1792.
[15] Văn như thị/聞如是: Nhiều dịch giả trước thời Cưu-ma-la-thập, bao
gồm Trúc
Pháp Hộ(Dharmarakṣa), sử
dụng cụm từ này.
[16] Đạo nhãn/道眼: Cụm từ này xuất
hiện thường
xuyên trong những bản dịch trước thời Cưu-ma-la-thập, bao
gồm những bản dịch của Trúc
Pháp Hộ. Tham
chiếu, Krsh (1998) 92.
[17] Tà ma/邪魔: Một sự chuyển dịch Māra~ pāpīyas~. Chi
Khiêm (khoảng 220-257 TL) thường dịch Māra~ pāpīyas~ là tà/邪, tệ
tà/弊邪. Tham
chiếu Krsh (2010) 37f., mục tệ ma/弊魔; ib. 757. Trúc
Pháp Hộ sử
dụng từ tệ ma/邪魔 trong một bản dịch khác của ông: T.
15, no. 598, 154a20.
[18] Đạo sĩ/道士: Từ này thường được sử
dụng để dịch các từ brāhmaṇa,
śramaṇa, tāpasa, v.v., trong những bản dịch trước thời
Cưu-ma-la-thập. Trúc
Pháp Hộ cũng sử
dụng từ này nhiều lần, chẳng hạn T.
14, no. 425, 30b24. 如號名聞梵志、 道士大祠祀施.
[19] Ưng phụng vu lan bồn/應奉盂蘭盆: Kinh
tạng Koryǒ (Hàn Quốc) và Ấn bản Taishō đã thay bằng Ưng phụng thử
vu lan bồn/應奉此盂蘭盆, trong khi những ấn bản khác là Ứng phụng vu lan
bồn/應奉盂蘭盆. Thêm thử/此 là không cần
thiết.
[20] Hiếu từ/孝慈, trong đó từ/慈 có nghĩa “kính trọng”, một cụm từ rất
cổ (tham
chiếu: Seishi Karashima, A
Study of the Language of Early Chinese Buddhist Translations: A
Comparison between the Translations by Lokakṣema and Zhi Qian, §
2.5.2.) Việc sử
dụng này cũng cho thấy rằng bản
kinh này được dịch (hoặc sáng
tác) trước thời Cưu-ma-la-thập.
[21] Sở sanh hiện
tại phụ mẫu/所生現在父母 cũng là một cụm từ cổ. Tham
chiếu: Krsh (1998) 437, mục 所生母.
[22] Cáo/告 ở đây có nghĩa là “nói” mà không xác định rõ người mà Đức
Phật đang nói. Tuy
nhiên, từ
ngữ cảnh, rõ
ràng Đức
Phật đang nói với Mục-liên và những đệ
tử khác. Việc sử
dụng cáo/告 này thường được tìm
thấy trong những bản dịch
kinh Phật khác, chẳng hạn T.
8, no. 225 (Đại
minh độ kinh/大明度經 của Chi Khiêm/支 謙), 488b1f. 善業問: “謗誹斷經者,凡用幾事.”
佛告: “斯士、女無戒。爲邪所中故. 不樂深經. 以斯 二事斷明度矣. …… 是爲四事.” 善業白佛言: “不覩深歸少有信者.”
[23] Nãi chí/乃至 : Tạng Koryǒ và ấn bản Taishō viết Nãi
chí cộng thực/乃至供養, trong khi những ấn bản khác là Nãi chí/乃至.
Cộng thực/供養 dư
thừa.
[24] Hiếu
thuận từ/孝順慈 : Một vài ấn bản sử
dụng hiếu từ/孝慈. Cả 孝順慈 và 孝慈 có nghĩa là “Hiếu kính cha
mẹ của mình”. Xem ghi chú 19.
[25] Đương/當 (←常): 當, 常 cũng 嘗 thay đổi lẫn nhau thông qua hình
thức được đơn
giản hóa phổ
biếncủa chúng là 尚.
[26] Tứ
bối đệ tử/四輩弟子: Cụm từ này, mà nó xuất
hiện trong bản dịch của Trúc
Pháp Hộ, là cách dùng trước thời Cưu-ma-la-thập. Tham
chiếu: Krsh (1998) 425f., các mục 四輩, 四輩弟子. Cũng tham
chiếu: Krsh (2001) 422, mục 四輩弟子. Cưu-ma-la-thập thì sử
dụng tứ chúng/四衆 hay bộ chúng/四 部衆. Tham
chiếu: Krsh (2001) 253, mục 四部衆.
[27] Tham
chiếu Upasak 1975: 147f.; Chung 1998; Kieffer-Pülz 2006.
[28] Vin I 157-178; T.
22, no. 1421 (Luật
tạng của Mahīśāsaka), 130c-133c; T.
22, no.1425 (Luật
tạngcủa Mahāsāṃghika), 451a-452a; T.
22, no.1428 (Luật
tạng của Dharmaguptaka), 835c-843b; T.
23, no. 1435 (Luật
tạng của Sarvāstivādin), 165a-173a; Pravāraṇāvastu của
Mūlasarvāstivādin, trong đó những đoạn Sanskrit, bản dịch Tạng ngữ và
bản dịch Hán ngữ của Nghĩa
Tịnh (T. 24, no.
1446) đã được san định nơi Chung 1998.
[29] Vin I 168.26f. Tena
kho pana samayena aññatarasmiṃ āvāse tadahu pavāraṇāya manussehi
dānaṃ dentehi yebhuyyena ratti khepitā hoti.
[30] Không có đoạn Sanskrit nào của phần này được tìm
thấy.
[31] Chung 1998: 196f. ’di ltar yang dgag dbye bco lnga pa de nyid
la rgyal po dang | btsun mo dang | gzhon nu dang | blon po dang | khrom
gyi ru ba dang | grong mi dang | yul mi dag dang thabs cig tu kun dga’
ra bar lhags la | der rgyal pos kyang dge ’dun la gos dang zang zing gi
rnyed pa mang du phul | btsun mo dang | gzhon nu dang | blon po dang |
khrom gyi ru ba dang | grong mi dang | yul mi dag gis kyang dge ’dun la
gos dang zang zing gi rnyed pa mang du phul la sgrogs par byed pa’i dge
slong gis kyang bsgrags pas nam ring zhig zad par gyur pa la (= Tib[P],
no. 1030, 214b3f.; Tib[D], no. 1, ka 228a1f.). Một bản dịch Đức ngữ
được tìm
thấy ở ib. 241. T.
24, no. 1446, 1046b23f. 爲隨意事。若於住處,或有王來,并諸眷屬。或有大臣、官屬、城
内外人亦皆來集,將諸飮食及衣物等,奉施苾芻僧伽,令其呪願。苾芻竟夜呪願,極大辛苦。
[32] T. 22, no.1425,
451b16f. 若比丘聚落中安居,聞城中自恣日種種供養,竟夜説法,衆欲往者,應十四日 自恣已,得去。
[33] Takakusu 1896: 86-88.
[34] T. 54, no. 2125, 217b19-c10:
十五隨意成規。凡夏罷歳終之時,此日應名隨意,即是隨他於三事之中,任意擧發,説罪除愆之義。舊云自恣者,是義翻也。必須於十四日夜,請一經師,昇高座,誦佛經。于時俗士雲奔,法徒霧集,燃燈續明,香花供養。明朝總出,旋繞村城,各並虔心,禮諸制底。棚車輿像,鼓樂張天,幡蓋縈羅,飄揚蔽日,名爲三摩近離,譯爲和集。凡大齋日,悉皆如是,即是神州行城法也。禺中始還入寺;日午方爲大齋。過午咸集,各取鮮茅可一把許。手執足蹈,作隨意事。先乃苾芻,後方尼衆,次下三衆。若其衆大,恐延時者,應差多人,分受隨意。被他擧罪,則准法説除。當此時也,或俗人行施,或衆僧自爲,所有施物將至衆前。其五徳應問上坐云:
“此物得與衆僧爲隨意物不? ” 上坐答云: “得。 ”
所有衣服、刀子、針錐之流,受已均分。斯其教也。此日所以奉刀針者,意求聰明利智也。隨意既訖,任各東西。即是坐夏已周,無勞更經一宿。廣如餘處。此不詳言。
[37] Một lễ
hội tương
tự cũng có thể được thấy ở những nơi
khác nhau ở Nhật
Bản vào lúc kết
thúc Vu
lan bồn, tức là vào ngày 15 hoặc 16 tháng Tám. Sau khi thực
hiện lễ tưởng niệm vong
hồn người quá
cố, người ta thả những chiếc đèn lồng bằng giấy và những đồ cúng
tế khác xuống một con sông hay biển, mà nó được gọi là Tōrō Nagashi
(灯籠流し) hay Shōryō Nagashi (精霊流し).
[38] Một số học
giả Phật giáo đã chỉ ra rằng hiếu là quan trọng trong Phật
giáo Ấn
Độ từ rất sơm. Tham
khảo: Schopen 1984 = 1997: 56-71; Guang Xing 2005.
[39] Chẳng hạn T. 1,
no. 1, Thiện
Sinh kinh/善生經 (Dharmaguptakas); những đoạn Sanskrit khác nhau
từ Trung Á thuộc về Nhất
thiết hữu bộ (Sarvāstivādin); T.
1, no. 26, Thiện
Sinh kinh/善生經 của cùng tông
phái này; T. 1,
no.16, Thi-ca-la-việt lục
phương lễ kinh/尸迦羅越六方禮經 của một chi phái không được biết,
được cho là do An
Thế Cao dịch; T.
1, no.17, Thiện
Sinh tử kinh/善生子經 của một chi phái không được biết đến, do
Shi Fadu dịch; hai đoạn của một tờ từ Afghanistan, mà nó có lẽ thuộc về
Đại chúng-Thuyết xuất
thế bộ (Mahāsāṃghika-Lokottaravādin). Tham
khảo: Hartmann/Wille 2006: 3.
[40] Tham
khảo: Schopen 1984: 115f. = 1997: 62f.; Irisawa 1989: 4f.; IBInsc
I 961f. (Gandhāra I), 1006f. (Taxila 1).
[41] Saghana danamukhe madapidara[n]a adhvadi<da>na kalagadana puyae
bhava(tu) uajayasa sagharamasa adhvadida[sa] puya[e] bhavatu (=
*saṃghānāṃ dānamukhe mātāpitṝṇāṃ adhvātītānāṃ kālagatānāṃ pūjāyai
bhavatu! upādhyāyasya saṃghārāmasya adhvātītasya pūjāyai bhavatu!). Xem
Seishi Karashima, Two
Inscriptions in Brāhmi and Kharoṣṭhī. Cũng tham
chiếu: IBInsc I 961f. (Gandhāra I).
[42] Pv-a(tr) 85; Pv 14-6.
[43] Pv-a(tr) 87; Pv 14-8-10.
[44] Tham
khảo BHSD, mục chandaka (1).
[45] Tham
khảo BHSD, mục dakṣiṇādeśanā
[46] Avś I 257.8f. teṣām asmākīnāṃ karmaplotiṃ nivedya
chandakabhikṣaṇaṃ kṛtvā buddhapramukhaṃ bhikṣusaṃghaṃ bhojayitvā asmākaṃ
nāmnā dakṣiṇādeśanāṃ kārayitvā câsmākaṃ pretayoner mokṣaḥ syād. Tham
chiếu: Avś(tr) 175f.
[47] Ashikaga, Ensho, 1951, “Notes on Urabon ("Yü Lan P'ên,
Ullambana")”, in: Journal of
the American Oriental Society, New Haven, 71.1: 71-75. Irisawa,
Takashi, 1989 “Ekō no Genryū” 廻向の源流 [The Origin of Merit Transference],
in: Seinan Ajia Kenkyū 西南アジア研究
30: 1-20. Teiser, Stephen F. 1988 The
Ghost Festival in Medieval China Princeton: Princeton University
Press.
[48] Bản viết tay là 盂瓫, mà nó có lẽ là một lỗi ghi chép chỉ cho
盂蘭盆. Nơi trích dẫn của Huệ
Lâm, nó được viết là 盂蘭盆.
[49]盂蘭盆:此言訛也。正言烏藍婆拏,此譯云倒懸。案西國法,至於衆僧自恣之日,盛設供具,奉施佛僧,以救先亡倒懸之苦。以彼外書云:
“先亡有罪,家復絶嗣,无人祭神請救,則於鬼處受倒懸之苦。 ” 佛雖順俗,亦設祭儀,乃敎於三寳田中深起功德。舊云盂瓫 (read
盂蘭盆)是貯食之器,此言誤也。 (Trung Hoa Đại
tạng kinh/中華大藏經, vol. 56, no. 1163, 1014c19f.). Sự giải
nghĩa này được trích nơi Nhất
thiết kinh âm nghĩa/一切經音義 của Huệ Lâm/慧琳) như sau:
盂蘭盆:此言訛也。正言烏藍婆拏。此譯云倒懸。案西 國法,至於眾僧自恣之日,云先亡有罪,家復絶嗣,亦無人饗祭,則於鬼趣之中受倒懸之苦。佛令於
三寶田中,倶具奉施佛僧,祐資彼先亡,以救先亡(←云)倒懸飢餓之苦。舊云盂蘭盆是貯食之器者,此 言誤也。 (T.
54, no. 2128, 535b13f.).
[50] Nanjio 1883: 78, no. 303.
[51] Karashima 2007: 451f. = 2008: 150f.
[52]馬腦:梵言謨薩羅掲婆。謨薩羅,此譯云杵;掲婆,此言藏。或言胎者,取其堅實也。舊云摩娑羅伽隸,或言目薩羅伽羅婆。譯云馬腦。案此寶或色如馬腦,因以為名。但諸字書旁皆安石作碼碯二
(read 字)。謂石之類也。 (Trung Hoa Đại
tạng kinh/中華大藏經, vol. 56, no. 1163, 905c11f.).
[53] Tham
khảo: Karashima 2007: 451, n. 31 = 2008: 161, n. 32.
[54] Chẳng hạn, Phật
Quang Đại
từ điển/佛光大詞典, tr.5839, 6738.
[55] Tham
khảo: Krsh (2001) 170.
[56] Karashima 2007: 447f. = 2008: 146f.
[57] Tham
khảo khi chú số 12.
[58] Mặc dù Irisawa (1990: 164) khẳng định rằng Vu lan/盂蘭 có thể liên
quan đến từ Hán ngữ can
lam/干藍, có nghĩa là một ngôi nhà sàn, thường được thấy nơi những dân
tộc thiểu
số ở vùng Tây nam Trung
Quốc. Thuyết này phần nào khó chấp
nhận.
[59] Tham
khảo: Karashima 1994: 58f.; 1996: 37f.
[60] Pātim 84.13, 96.14, 96.18; PrMoSū(Sa.v.Si.) 236.10, 247.2,
249.10, 250.1; PrMoSū(Mā-L) 29.27, 33.1, 33.4.
[61] Tham
khảo CPD, mục odana; DP,
mục odana; SWTF,
mục odana; Geiger 1960: §
34
[62] Tham
khảo: Vism 70.18. odana-piṇḍa (một
cục cơm nấu); Harivaṃśa 60.16. prakāśaudanaparvata(một
núi cơm nấu chín).
[63] Tham
khảo: Pischel § 244, Brough 1962: § 43b, 229, 255~256; von
Hinüber 2001: § 200.
[64] Tham
khảo: Krsh 2010: 281f.
[65] Tham
khảo: Karashima 1994: 19, 64, n. 38.
[66] Trong Abhisamācārikā
Dharmāḥ, chúng
ta thấy từ odana-mānikā (một
chậu cơm); tham
khảo: Abhis II 370, n. 4.
[67] Có một sự phiên âm cổ khác của chính từ Sanskrit này, đó là
bát-hòa-lan/鉢和蘭 (= Skt. pravāraṇ(ā)), mà nó cũng được tìm
thấy trong những bản dịch trước thời Cưu-ma-la-thập: đó là Tân
tuếkinh/新歳經 của Đàm
Vô Sấm/曇無蘭 (khoảng 381?-394 TL?), T.
1, no. 62, 859, 860c12, 13, 24, 28 v.v...; Xuất
diệu kinh/出曜經 của Trúc Phật Niệm/竺佛念 (khoảng vào triều Đông
Tấn [317-420 TL]), T. 4,
no. 212, 775b17; Tự thệ tam
muội kinh/自誓三昧經 được quy do An Thế Cao安世高 (khoảng 148-168 TL)
nhưng có lẽ là một bản dịch được thực
hiện vào thế kỷ III-IV, T.
15, no. 622, 346a3, 5; Như
Lai độc chứng tự thệ tam
muội kinh/如來獨證自誓三昧 經 của Trúc
Pháp Hộ (khoảng 265?-311 TL), T.
15, no. 623, 348a20.