Ý nghĩa của việc miêu tả hoa sen nơi nghệ thuật Gandhara
Ý nghĩa của việc miêu tả hoa sen
Ý nghĩa của việc miêu tả hoa sen nơi nghệ thuật Gandhara
Kiran Shahid Siddiqui*- Nguyên Hiệp dịch
Sen, danh pháp khoa học là nelumbo nucifera, là một loài cây thủy sinh,
được dùng để trang trí, làm thuốc và thực phẩm. Nó là một loại cây mang nhiều ý
nghĩa và được yêu thích trong nhiều nền văn hóa. Sen tượng trưng cho sự thanh
sạch tuyệt đối và do đó được mô tả nơi hầu hết mọi thể loại nghệ thuật của thế
giới. Hoa sen là một biểu tượng phổ quát được sử dụng không chỉ làm mô-típ trang
trí mà cũng biểu thị cho trạng thái thiêng liêng của các vị thần, và do đó việc
mô tả nó có ý nghĩa đặc biệt trong mọi nền văn hóa và tôn giáo. Hoa sen mọc từ
“bùn nhơ”, nhưng nó tiêu biểu cho sự thanh khiết và toàn mãn, điều mà các Phật
tử, những người hướng đến một đời sống chân thực và thanh tịnh, xem là một lý
tưởng.[1]
Nó được sử dụng như một biểu tượng và những mô-típ trang trí trong nhiều thể
loại nghệ thuật.
Hoa sen xuất hiện lần đầu nơi nghệ thuật Ai Cập cổ đại như là một biểu tượng của
sự tái sinh, và sau đó du nhập vào Ấn Đô qua ngã Lưỡng Hà (Mesopotamia) và Ba Tư
(Persia). Hoa sen là một biểu tượng xuất hiện thường xuyên trong thi ca, nghệ
thuật điêu khắc và hội họa Ấn Độ từ thời xa xưa cho đến ngày nay. Nơi văn học và
thi ca Ấn Độ, đôi mắt của một người phụ nữ đẹp được ví với hoa sen. Sen được đề
cập trong các Veda là tượng trưng cho sự may mắn và sinh sản, và được sử
dụng rộng rãi như một mô-típ trang trí nơi những phong cách nghệ thuật khác nhau
ở Ấn Độ. Theo Rig-veda, thần Lửa (Agni) được cho sinh ra từ một hoa sen.
Ở Ấn Độ, hoa sen được gọi là Pushkara, Pundarika, Padma hay Kamla, là một loài
hoa thiêng của đất nước này. Nó giữ một vị trí trọng tâm trong thần thoại của
Bà-la-môn giáo. Và từ rất sớm, nó được nói tượng trưng cho Thần Brahma.
Sen được nối kết với Nữ thần Lakshmi, vị được cho là từ “hoa sen sinh ra”, và
thường được mô tả nắm một hoa sen trong tay và đôi khi đứng trên một hoa sen.
Lakshmi tượng trưng cho cái đẹp, tài sản và vận may, và được mô tả là “có mắt
hoa sen”, “bắp đùi hoa sen”, “khuôn mặt hoa sen” hay “nước da hoa sen”.
Bà cũng được biết đến bằng tên gọi là “Kamala và Padma” mà chúng nối kết bà với
hoa sen.
Nơi nghệ thuật của Ấn Độ giáo, Kỳ-na giáo và Phật giáo, hoa sen được thấy gắn
liền với hầu hết các vị thần và nữ thần. Việc mô tả những vị thần trên chỗ ngồi
hoa sen, tòa sen hay bệ hoa sen, tượng trưng rằng chư vị đã thoát tục.
Hoa sen xuất hiện nơi những di tích kiến trúc cổ của Phật giáo, cũng như nơi
những kiến trúc của Ấn Độ giáo và Kỳ-na giáo khắp Ấn Độ. Nơi nghệ thuật Phật
giáo, hoa sen xuất hiện lần đầu trên những trụ đá của vua Ashoka (A Dục) có niên
đại thế kỷ III tr.TL. Trên đầu những trụ đá này ta thấy có khắc tạc những cánh
hoa sen xoay ngược mà nó tượng trưng cho sự đản sinh của Đức Phật.
Nơi kiến trúc Phật giáo khác, hình thức mở rộng đơn giản nhất của nó là mô-típ
hình tròn mà ta thấy thường được sử dụng như mô-típ trang trí nơi các cột, phù
điêu, trần và tường rào ở Sanchi, Bharhut, Amaravati, Bodhgaya, và ở nơi những
chùa động Phật giáo ở Tây Ấn. Việc sử dụng thường xuyên của nó trong nghệ thuật
Phật giáo có thể do bề ngoài “trông giống như bánh xe” của nó.
Bên cạnh ý nghĩa trang trí, hoa sen tượng trưng cho trí tuệ viên mãn.
Nơi nghệ thuật Phật giáo thời kỳ đầu, Lakshmi và hoa sen được sử dụng để tượng
trưng cho sự đản sinh của Thái tử Siddhartha, người trở thành Đức Phật Gautama
về sau.
Trường hợp cổ xưa và nổi bật nhất của điều này là tượng của nữ thần Ấn giáo
Lakshmi nơi những tác phẩm điêu khắc Phật giáo ở Bharhut, và cũng trên những
cổng vào của bảo tháp tại Sanchi. Ở đó Lakshmi được miêu tả ngồi hoặc đứng trên
một hoa sen và nắm mỗi tay một hoa sen mà chúng được hai con voi phun nước. Hoa
sen cũng liên hệ đến mặt trời. Sự liên hệ của nó có thể do rằng nó nở vào lúc
bình minh (suryabikasi) và khép lại vào lúc hoàng hôn. Vào giai đoạn nghệ
thuật Phật giáo chưa sử dụng hình nhân, “đĩa mặt trời hình bánh xe với hàng ngàn
chiếc nan của nó” ở trên dấu chân của Đức Phật về sau được chuyển thành mô-típ
hoa sen được yêu thích ở Gandhara.
Nơi cảnh đản sinh ở Sanchi, hoàng hậu Maya thường được mô tả ngồi hay đứng trên
một hoa sen. Theo truyền thống Phật giáo, Đức Phật khi vừa hạ sinh đã bước đi
bảy bước. Nghệ thuật Phật giáo trình bày bảy bước đi của Đức Phật bằng bảy hoa
sen nở.
Bát Thánh đạo của Đức Phật được trình bày bằng tám cánh hoa sen cách điệu.
Hoa sen là một trong tám biểu tượng cát tường của Phật giáo,
mà nó tượng trưng cho niềm tin và thường được sử dụng như những chủ đề trang trí
của các bảo tháp. Trụ cột hình bình hoa sen cũng thường xuyên được sử dụng từ
thời cổ đại như kiểu kiến trúc ở Ấn Độ.
Mô tả hoa sen nơi nghệ thuật điêu khắc Gandhara
Nghệ thuật Gandhara là một loại nghệ thuật kể chuyện Phật giáo mà nó khởi xuất
vào thế kỷ I tr.TL với mục đích truyền bá Phật pháp vào xứ Gandhara xưa và những
vùng phụ cận. Nghệ thuật này chịu ảnh hưởng phong cách nghệ thuật nước ngoài,
đặc biệt là La Mã và Hy Lạp, do vì vị trí của nó và việc nối tiếp nhau kiểm soát
vùng đất này của những người cai trị nước ngoài: Persia, Hy Lạp, Ấn-Hy, Scythia,
Parthia và Trung Á. Nghệ thuật Gandhara được xem là nghệ thuật kể chuyện đầu
tiên đã miêu tả Đức Phật như là một người trong y phục Apollo, mà đó là do sự
ảnh hưởng của Hy Lạp. Nét mặt của các bức tượng, nếp gấp y phục, những chi tiết
kiến trúc ở nơi phù điêu có nguồn gốc nước ngoài. Nhiều tượng thần và bán thần
cũng xuất hiện nơi nghệ thuật này mà nó nói lên bản chất nước ngoài của nó.
Ngoài phong cách và kỷ thuật nước ngoài phức tạp của nó, còn thì chủ đề của nghệ
thuật Gandhara hoàn toàn bản địa, tức để phục vụ Phật giáo với một sự nhấn mạnh
đặc biệt vào con người và cuộc đời Đức Phật. Cỏ cây, muông thú, đổ trang sức,
vật trang trí và hầu hết những mô-típ trang trí được mô tả nơi những tác phẩm
điêu khắc Gandhara biểu thị xu hướng Ấn Độ của nó.
Hoa sen ở nơi tất cả hình thức nghệ thuật của nó là một trong những biểu tượng
được sử dụng thường xuyên và thiêng liêng nhất nơi nghệ thuật Gandhara. Nó là
một biểu tượng của sự thanh tịnh và toàn mãn, được sử dụng để biểu thị cho Đức
Phật và chư Bồ-tát.
Nơi những tác phẩm điêu khắc Gandhara, hoa sen được trình bày hoặc tự nhiên hoặc
cách điệu. Những hoa sen cách điệu thường được mô tả với các cánh của chúng xoay
ra ngoài và xếp thành hai dãy trở lên. Mỗi cánh được khắc chạm sắc sảo từ trung
tâm với mép có hình dạng như một đường viền.
Hoa sen cách điệu thường xuất hiện nơi tòa ngồi, bệ v.v… Nơi những tác phẩm điêu
khắc của Gandhara và Mathura, hoa sen có cuống cũng xuất hiện. Mô-típ hoa sen
cũng được nhận thấy trên những vật hình đĩa như chiếc lọng trên đỉnh tháp (chatra).
(Hình 1)
Hoa sen cũng được sử dụng như một họa tiết trang trí trên những vầng hào quang
của các nam và nữ thần. Vầng hào quang quanh đầu những vị thần Ấn Độ thường được
phác vẽ với một mô-típ hoa sen. Ở Gandhara, Đức Phật được mô tả với một vầng hào
quang, mà qua thời gian thường được khắc tạc với một hoa sen nở có kích cỡ lớn.
Vầng hào quang được trang trí với hoa sen gợi nhớ lại câu chuyện tiền thân
(Jataka) Dipankara.
Chuyện tiền thân Dipankara
Sự nối kết của hoa sen với chuyện tiền thần Dipankara được xác nhận bởi
chính câu chuyện. Câu chuyện tiền thân này được mô tả thường xuyên nơi nghệ
thuật Gandhara. Chuyện tiền thân Dipankara kể về một vị ẩn sĩ có tên là
Sumdedha,
người được miêu tả đang tìm mua những bông sen từ một cô gái có tên là
Yasshodhra để cúng dường cho Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara). Theo câu chuyện,
Đức Phật Nhiên Đăng bấy giờ sắp thăm viếng thành phố của Sumedha. Khi tin về
việc Đức Phật Nhiên Đăng thăm viếng thành phố đến tai Sumedha, ông vội vàng đi
mua một vài bông hoa để đón tiếp Ngài. Nhưng ông không thể mua hoa bởi vì nhà
vua đã ra lệnh để dành tất cả hoa trong thành phố để nghinh đón Đức Phật.
Sumedha chỉ mua được năm bông hoa từ một cô gái. Sau đó ông tung những bông hoa
lên Đức Phật Nhiên Đăng và những bông hoa đó không rơi xuống mà nằm lơ lửng trên
không trung. Sumedha sau đó phủ phục trước Đức Phật Nhiên Đăng và xỏa mái tóc
dài của mình trên một vũng bùn để chân của Đức Phật không bị bẩn khi bước lên
đó. Đức Phật Nhiên Đăng cảm kích sự mộ đạo của ông và thọ ký rằng Sumedha sẽ
thành vị Phật tiếp theo. Tất cả những sự việc này được tập hợp lại và trình bày
trên một pa-nô.
Bệ ngồi hoa sen (padmasana)
(H. 2)
Bệ ngồi hoa sen là một mô-típ thường thấy nơi nghệ thuật Ấn giáo và Phật giáo.
Trong thần thoại Ấn giáo, việc miêu tả các vị thần và nữ thần trên một tòa hay
bệ ngồi hoa sen là rất phổ biến. Các vị Thần Brahma, Siva và Vishnu với vợ của
họ là Sarasvati, Parvati và Lakshmi thường được miêu tả ở trên bệ ngồi hoa sen
mà nó tượng trưng cho bản chất thiêng liêng của họ.
Thần Indra, Surya và những vị thần Hindu khác cũng xuất hiện hoặc trên chỗ ngồi
hoa sen, hoặc bệ hoa sen. Bệ ngồi hoa sen được sáp nhập vào trong nghệ thuật
Phật giáo lần đầu ở Sanchi vào thế kỷ II tr.TL và về sau được sử dụng rộng rãi ở
Gandhara, đặc biệt với tượng Phật và Bồ-tát, nhằm biểu thị sự cao quý và thanh
tịnh vốn có của họ.
Ở Gandhara, Đức Phật thường được miêu tả ngồi kiết già trên bệ hoa sen hay đôi
khi Ngài được trình bày đang đứng trên một bệ hoa sen. Nghệ thuật Gandhara cũng
cho thấy việc trang trí hoa sen vào nơi tòa ngồi của Đức Phật, thường trình bày
hoa sen một cách tự nhiên với đường bên ngoài các cánh hoa cong xuống mà nó
giống với trang trí nơi đầu trụ đá vua Ashoka.
Hai dãy cánh hoa sen cong xuống cũng thường xuyên xuất hiện ở Gandhara. Ngoài bệ
ngồi của Đức Phật, hoa sen cũng được sử dụng làm bệ cho chư Bồ-tát đứng hoặc
ngồi.
Phép mầu Sravasti
Phép mầu Sravasti là chủ đề được ưa thích trong truyền thống Phật giáo. Pa-nô mà
nó trình bày câu chuyện này miêu tả Đức Phật ngồi trên tòa sen được làm bằng
một, hai hoặc ba dãy cánh hoa. Ngài ngồi trong tư thế chuyển pháp luân (dharmachakramudra)
ở
bên dưới một tán cây. Bên trái và phải của Ngài là hai vị Bồ-tát Di Lặc
(Maitreya) và Quán Thế Âm (Avalokitesvara) đang đứng. Nơi hốc tường ở gốc trên
có tạc hai vị Bồ-tát đang ngồi thiền. Phía sau Đức Phật, bên tay trái là Thần
Indra và bên tay phải là Thần Brahma.
Hariti
Hariti (Quỷ Tử Mẫu) là một nữ thần phổ biến trong truyền thống Phật giáo và cũng
thường được trình bày nơi nghệ thuật Phật giáo. Bà thường được mô tả cùng với
những người con của bà. Đôi khi bà được nhìn thấy đang đứng với người con yêu
quý của mình trong khi ở chỗ khác thì ngồi với chồng của mình là Panchika. Bà
được mô tả nơi nghệ thuật Gandhara với một quả lựu, biểu tượng của khả năng sinh
sản. Lựu hiện vẫn được trồng ở vùng đất này. Hariti đôi khi cũng được miêu tả
cầm một hoa sen với cuống hoa cao bằng ngang vai.
Cả hoa sen và Hariti tượng trưng cho sự sinh sản (H. 3)
Bồ-tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara)
Quán Thế Âm là vị Bồ-tát nổi tiếng nhất trong Phật giáo Đại thừa. Ngài được đề
cập là vị Bồ-tát của lòng từ bi.
Nơi nghệ thuật mô tả tranh tượng Phật giáo, Bồ-tát Quán Thế Âm xuất hiện lần đầu
vào đầu thời kỳ Kusan. Ban đầu, ngài được trình bày là một vị phụ tá của Đức
Phật nhưng về sau đã giữ một vị trí nổi bật và thường được mô tả một mình.
Ở Gandhara, hoa sen cũng cho thấy có liên hệ đến Bồ-tát Quan Thế Âm như là biểu
tượng chính của ngài. Ngài cũng được gọi là Padmapani (tay cầm hoa sen) và được
cho là sinh ra từ một hoa sen.
(H. 4). Bồ-tát Quán Thế Âm được mô tả cầm một hoa sen nở với cuống của nó ở
trong tay trái.
Vào thời kỳ về sau, hoa sen trở thành một biểu tượng của lòng từ bi với những
biểu tượng khác của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Ở Gandhara, có một vị Bồ-tát, có lẽ là Padmapani, thỉnh thoảng xuất hiện với một
hoa sen nơi tay trái, ngồi trên một hoa sen được làm bằng ba hàng cánh hoa có
rảnh ở giữa, đầu cánh hoa hướng xuống dưới. Bồ-tát nắm một hoa sen là một biểu
tượng của thời kỳ về sau.
Di Lặc (Maitreya)
Ở Gandhara, Di Lặc, Đức Phật tương lai, và những vị Bồ-tát khác, được mô tả cùng
với hoa sen. Điều này có lẽ mang một ý nghĩa triết học quan trọng. Di Lặc đôi
khi được miêu tả ngồi trên một tòa sen hay đứng trên một bệ sen (H. 5 và 6).
Chiếc bình của Di Lặc (H. 7 & 8) thường được trang trí với hoa sen ở hai đầu
cách nhau ở giữa bằng một dãi đính cườm. Những cánh của hoa sen được xoi rãnh ở
giữa.
Biểu tượng Tam bảo
Biểu tượng Tam bảo (Triratna) là biểu tượng thiêng liêng nhất trong các biểu
tượng Phật giáo mà nó biểu thị việc thuyết bài pháp đầu tiên của Đức Phật. Tam
bảo gồm Phật, Pháp và Tăng. Có ba bánh xe được đặt trên chóp Triratna, và có một
bánh xe khác nâng Triratna này. Những bánh xe bên trên được trình bày với các
nan xe trong khi bánh xe bên dưới với những cánh hoa sen. (H. 9)
Hình hoa sen
Một Tritoness
được tạc bên trong một vật hình hoa sen
là một trường hợp có ý nghĩa của việc kết hợp kỷ thuật phương Tây và địa phương.
Tritoness nằm ở chỗ lõm trong cùng của hình tròn mà nó được viền bằng một hàng
đôi cánh hoa sen được khoét rãnh ở giữa tạo thành một cái mô. Những vật hình hoa
sen có tượng người, bán nhân và thú vật được trình bày phổ biến ở Sanchi,
Bharhut, Bodhgaya, Mathura và Amaravati và tiếp tục là mô-típ trang trí cho đến
thế kỷ XII (H. 10).
Miêu tả tritoness nơi nghệ thuật Gandhara là kết quả của sự ảnh hưởng nghệ thuật
phương Tây trong khi hoa sen gợi nhắc sự ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ.
Nơi những tác phẩm điêu khắc Gandhara, nhiều nhân vật được miêu tả nắm một hoa
sen có cuống hoặc đôi khi một bó sen ở nơi tay (H. 11). Đặc biệt, những tín đồ
nam và nữ xuất hiện với hoa sen nơi tay, mà có lẽ tượng trưng cho sự tôn kính
của họ đối với Đức Phật (H. 12). Có khả năng rằng, bên cạnh ý nghĩa biểu tượng
của nó, hoa sen là loại hoa được yêu thích và ngưỡng mộ nhất của người dân
Gandhara thời bấy giờ.
Có một hoa sen tám cánh xuất hiện nơi đáy của chiếc bình xá-lợi Bimaran được làm
bằng vàng. Cánh hoa được xoi rảnh ở giữa và thon dần về phía nhụy hoa mà nó được
biểu thị bằng các chấm. Những hoa sen nhỏ xuất hiện giữa các điểm của tám cánh
hóa. (H. 13).
Mô-típ hoa sen nơi những tiểu tiết kiến trúc
Bên cạnh việc miêu tả như một biểu tượng, hoa sen thường xuyên được kết hợp tôn
tạo những tiểu tiết kiến trúc được thấy nơi nghệ thuật Gandhara. Nó được sử dụng
như một họa tiết trang trí để tạo khung cho các pa-nô trong nhiều phong cách
khác nhau. Những pa-nô hình trống nơi bảo tháp được vẽ khung bằng những pa-nô
hình chữ nhật miêu tả các mẫu hoa sen. Các gốc trụ ngạch cũng thường được trang
trí bằng những cánh hoa sen. Một pa-nô hình tháp, với năm hình hoa hồng tách rời
nhau bằng những hoa sen dọc xoay lên và xuống, là một trường hợp đáng chú ý. (H.
14)
Có thể nhìn thấy biểu tượng hoa sen nơi kiến trúc của Bái
Hỏa
giáo. Việc khắc tạc vua Ardashir II tại Taq-i-Bustan có miêu tả thần Mithra đứng
trên một hoa sen. Nơi phù điêu tại Persepolis, nhà vua và hầu hết những quý tộc
mỗi người cầm một hoa sen trong tay. Hoa sen là một trong những chi tiết đẹp và
cổ xưa nhất nơi các mẫu thảm của Ba Tư (Persia).
Hoa sen cũng thường thường được thấy nơi kiến trúc Hồi giáo thời kỳ Seljuq và
những thời kỳ về sau. Ví dụ, hình dạng một hoa sen xuất hiện nơi tấm thạch cao
đục lỗ ở hóc cầu nguyện (midrab) của đền thờ Malik ở Kirman. Mô-típ hoa
sen cũng là một thiết kế phổ biến khắc tạc trên những bia mộ tượng trưng cho
trời. Những bia mộ Chaukandi và Makli gần Natta, thuộc về thời kỳ Hồi giáo, cũng
là một trường hợp tiêu biểu về mô tả hoa sen vào thời kỳ Hồi giáo.
Kết luận
Như vậy, hoa sen có ý nghĩa trong nghệ thuật miêu tả Phật giáo khi nó chưa dùng
hình nhân và được sử dụng nhiều để tượng trưng cho Đức Phật. Về sau, mô-típ hoa
sen được sử dụng nhiều trong các cảnh tôn giáo và thế tục và cũng được sử dụng
như một yếu tố trang trí nơi nghệ thuật Gandhara. Những hình thức khác nhau của
các bệ hoa sen là trong số những đặc điểm mà chúng tượng trưng cho những phát
triển của nghệ thuật Gandhara vào giai đoạn chín muồi.
Nghệ thuật Gandhara được nghĩ chịu ảnh hưởng những yếu tố nước ngoài, nhưng một
vài yếu tố chẳng hạn như việc mô tả mô-típ hoa sen lại có liên hệ với những
truyền thống nghệ thuật bản địa. Đây là một mô-típ được yêu thích trong Ấn giáo,
Phật giáo và Kỳ-na giáo.
Hoa sen được cho phổ biến ở Pushkalavati (thành phố hoa sen) và về sau đi vào
trong mọi ngôi nhà ở Gandhara bởi vì mô-típ hoa sen được sử dụng liên tục ở khu
vực Khyber Pakhtun Khwah từ thời xa xưa. Giống như nhiều thiết kế và trang trí
khác, ngày nay mô-típ hoa sen có thể nhìn thấy hiện diện từ nơi các tác phẩm
điêu khắc đá ở Gandhara đến những cánh cửa gỗ và trụ đá nơi kiến trúc nhà truyền
thống Pukhutun ở những ngôi làng xa xôi. Mô-típ hoa sen được các nhà thương buôn
và Tăng sĩ mang từ Gandhara đến các nước Đông Nam Á và giữ một vị trí quan trọng
trong nghệ thuật tôn giáo ở Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và những quốc gia
khác.
*
Department of General History, University of Karachi, Pakistan.
Nguồn: academia.edu
Hình
hoa sen là một mô-típ chung của nghệ thuật Ấn Độ.