Gary Gach, trong
tác phẩm
của mình viết
đại ý
rằng,
chúng ta
nên
ca tụng
người làm ra ổ
bánh mì đầu tiên.
Cũng như
chúng ta
vẫn nhớ ơn anh
em Wright đi
tiên phong
phát minh ra máy
bay. Khi họ
bước lên
chiếc máy bay
đầu tiên bay vào
một chân trời
vô định,
họ đã làm được
một điều vĩ đại.
Và
nhân loại
vẫn
sử dụng
cách tính toán
siêu phàm
của họ về những
chuyến bay
cho đến
hôm nay.
Đọc
giáo pháp
Đức Phật
cũng như
bước lên
một chiếc máy
bay (giả
định), ở
đó Ngài khuyến
khích ta đạt tới
sự
bình an -
tỉnh thức,
nâng cao
tính thiện
và khai mở mọi
tiềm lực
của
đời sống.
Gach hỏi rằng
bạn đã sẵn sàng
gặp
con người
đã vạch ra
hành trình
đi đến
hạnh phúc
bền vững
một cách
trọn vẹn,
không
tốn kém,
rất “đời thường”
chưa?1 Đức
Phật nói,
Ngài chỉ dạy
những gì Ngài có
thể
thực hiện,
và Ngài kêu gọi
mọi người
cùng
thực hành
và tự
khám phá
cũng như
nhận thức
cho riêng mình.
Ngài là người
hướng dẫn chứ
không phải
Thượng đế
và những ai chờ
đợi
Thượng đế
hay vị
giáo sĩ
nào bảo ban mình
nên biết rằng tự
họ có thể
khám phá
những gì mà
trong
thâm tâm
hay
trực giác
họ đã biết…
Đạo Phật
vốn
tự do
không cưỡng ép
ai,
không giáo
điều, không áp
đặt
quyền uy
buộc ai phải
theo. Người
dẫn đạo
không phải là
thần thánh
hay
Thượng đế.
Thế nhưng ngày
nay
con người
vẫn còn
mộng du
trong
ác mộng
của chính mình.
Ngay cả trong
giấc mơ ấy, họ
luôn luôn có cơ
hội để
tỉnh thức.
Hãy hướng về
Đức Phật
trong ngày Đản
sanh để
hy vọng
tìm thấy
trong
giáo pháp
của Người một
lối đi cho
chúng ta,
cho
xã hội và
cho
thời đại,
nếu có thể.
Năm nay là một
năm
đặc biệt
vì, ngoài những
lời chào mừng về
ngày
Phật đản
PL.2563, còn
mang theo
thông điệp
của Ngày Vesak
Liên Hiệp
Quốc được tổ
chức lần thứ ba
tại
Việt Nam,
với
chủ đề
chính “Cách tiếp
cận
Phật giáo
về sự
lãnh đạo
toàn cầu và
trách nhiệm
cùng chia sẻ vì
xã hội
bền vững”.
Lãnh đạo
trong
tinh thần
Bát-nhã
Thế giới
hôm nay đang có
nhiều điểm nóng,
từ Trung Đông
đến Nam Á hay
Biển Đông, không
kể những kẻ
khủng bố
đang
gieo rắc
tai họa ở
New Zealand hay
Hà Lan. Và
nhân loại
mong chờ
những nhà
lãnh đạo
sáng suốt
lèo lái đất nước
mình
thoát khỏi
hiểm họa chiến
tranh có thể xảy
ra một thời điểm
nào đó khi
tham vọng
của một vài kẻ
bá quyền
vượt quá
sự
tỉnh táo
cần thiết.
Chúng ta
hiểu “Tâm bình
thế giới
bình”, như
kinh Pháp cú
nêu rõ “Tâm làm
chủ các pháp”.
Tất cả
mọi việc
do tâm tạo ra,
tâm làm chủ.
Vì vậy,
nhận ra
tâm mình và
làm chủ tâm mình,
chúng ta
không còn tạo
ác nghiệp,
thì không còn
khổ và không còn
sanh tử luân hồi.
Nhược bằng
khởi tâm
tham, muốn
chiếm hữu
của người khác,
muốn đất đai
biển cả là của
mình, sẽ gây ra
phiền não
cho
bá tánh,
kể cả trong nước
mình; vì chiến
tranh xảy ra,
thì nói như các
sử gia: “Trong
chiến tranh có
kẻ thắng người
thua, nhưng
nhân dân
thì
chắc chắn
thua”, bởi lẽ
sao tránh được
cảnh nhà tan cửa
nát, đầu rơi máu
chảy.
Quan điểm
vì hòa bình
bền vững
buộc người
lãnh đạo
phải biết
tu dưỡng
thắng nhân.
Nghĩa là phải
biết “giới,
định” để phát
sinh “tuệ” hay
chính là
Bát-nhã, giúp họ
minh triết trong
giải quyết
rốt ráo
mọi
vấn đề.
“Đức Phật không
bao giờ xem hòa
bình như là một
quà tặng từ đâu
đến.
Quan điểm
của Ngài, hòa
bình là một
ý chí
quyết liệt, một
cuộc đấu tranh
kiên cường, một
vấn đề tự
giáo dục
và tự huấn
luyện, để dân
chúng có thể yêu
quý hòa bình như
là một
vật báu
cần phải
thực hiện
ngay từ bây giờ,
trên quả đất
này”2.
Ngược dòng
lịch sử,
các vua Lý-Trần
ở
Việt Nam
đã chọn
con đường
tích cực
nhập thế
khi dấn thân vào
các cuộc chiến
đấu vì
độc lập,
gìn giữ
hòa bình cho tổ
quốc. Họ sống
với tâm
“Bát-nhã”. Cố
Ni sư
Thích nữ
Trí Hải
từng giảng:
“Bát-nhã là để
mà sống, hành
động,
thể hiện,
chứ không phải
để nói suông.
Nói mà không làm
thì Bát-nhã
trở thành
huyễn hóa
như sương chớp
ảo ảnh,
hay như người
đói mà chỉ bàn
về
thức ăn,
thì không thể no
được. Miệng nói
Bát-nhã mà vẫn
sống và
xử sự một
cách
ngu si,
mê muội,
thì không phải
Bát-nhã… Sống
Bát-nhã thì
tâm không
thể
tán loạn,
đó là Định. Sống
Bát-nhã
tâm không
ngu si,
đó là Tuệ”3.
Cho nên mới có
người con Phật
họ Lý được dân
chúng ở nước Đạ
Năng miền Tây
Bắc Việt
suy tôn lên
lãnh đạo
cuộc cách mệnh
dân tộc
đánh đuổi
quân nhà Lương,
xây dựng
quốc gia
độc lập
hơn 30 năm. Đấy
là tấm gương đem
đạo vào đời
phụng sự
dân tộc
đặc biệt
của
Phật giáo Việt
Nam lần
đầu tiên vậy”4.
Trong
tinh thần
đó,
Quốc sư
Phù Vân
đáp lời vua Thái
Tông nhà Trần
tìm vào núi cầu
Phật rằng: “Núi
vốn không có
Phật, Phật chỉ
tồn tại
nơi
bản tâm
mình.
Bản tâm
lắng trong mà
biết, ấy gọi là
Phật - thật, nếu
bệ hạ
giác ngộ
được cái
bản tâm
ấy thì
thành Phật
liền đây, khỏi
khổ sở tìm cầu
bên ngoài tâm
vậy...”.
Quốc sư
khuyên nhà vua:
“Phàm kẻ làm vua
lấy
ý muốn
thiên hạ
làm
ý muốn
của mình, lấy
cái tâm
thiên hạ
làm cái tâm
mình”.
Vua
Trần Thái Tông
đã nghe theo lời
dạy ấy để
trở về
hành động
phụng sự
dân tộc vào sinh
ra tử suốt hơn
10 năm, để rồi
sau khi từ giã
ngai vàng,
giác ngộ
rằng
tâm không
chấp vào đâu, cứ
vô cầu mà hành
động “Ưng
vô sở
trụ…” Đấy là
tinh thần
Thiền học.
Sau này nhiều
thế kỷ,
tinh thần
của Gandhi trong
cuộc đấu
tranh giành
độc lập
cho
Ấn Độ
cũng thế
khi ông hành
động vô cầu để
tiêu trừ
cái ngã riêng tư
đến chỗ Không
“Je me réduis à
zéro” vậy.
Lãnh đạo
hướng đến
xã hội
bền vững
Xã hội
vốn mang nghĩa
hài hòa. Với
Tây phương
là société,
society, từ
tiếng La-tinh
socius, có nghĩa
bạn cùng sống,
bạn
đồng hành
(companion).
Vậy thì
xã hội
muốn
bền vững
phải hài hòa.
Trước hết, là sự
hài hòa trong
từng bộ môn.
Chẳng hạn kinh
tế phải tạo ra
sự hài hòa trong
chính nó: hài
hòa giữa thành
thị với nông
thôn, hài hòa
giữa giàu và
nghèo, hài hòa
với môi
trường sinh
thái, với địa lý
tự nhiên,
với tài nguyên…
Hài hòa được như
thế tức là kinh
tế phát triển
bền vững.
Vậy
lãnh đạo
phải tốt và
hiệu quả
mới có
xã hội
hài hòa,
Đức Phật
từng dạy rằng
khi người
lãnh đạo
chính phủ tham
nhũng và bất
công thì xứ sở
trở nên tham
nhũng, băng
hoại, và
đau khổ.
Ngài
chống lại
sự tham nhũng và
đã dạy rằng
chính phủ phải
biết quản trị
dựa trên
các nguyên tắc
nhân ái.
Ngài nói: “Khi
người
lãnh đạo
xứ sở có tính
công bình và
thiện ái thì
triều đình có
tính công bình
và thiện ái. Khi
triều đình có
tính công bình
và thiện ái thì
các quan chức có
tính công bình
và thiện ái. Khi
các quan chức có
tính công bình
và thiện ái thì
các cán bộ hạ
tầng có tính
công bình và
thiện ái. Khi
các cán bộ hạ
tầng có tính
công bình và
thiện ái thì
người dân có
tính công bình
và thiện ái”5.
Trong
kinh Bổn sanh
(Jakata),
Đức Phật
có đưa ra 10
nguyên tắc của
một chính quyền
tốt, gọi là
“Thập vương
pháp” (Dasa Raja
Dhamma). Mười
nguyên tắc này
vẫn có
thể
áp dụng
trong
thời đại
ngày nay cho bất
cứ một chính
quyền nào, để
quản trị xứ sở
một cách hài
hòa. Đó là:
Phải cởi mở và
không
ích kỷ;
Duy trì
đạo đức
cao; Sẵn sàng
hy sinh
lợi ích cá nhân
để
phục vụ
cho an sinh của
dân chúng; Phải
thành thật
và ngay thẳng;
Phải
dịu dàng
và giàu
lòng nhân
ái; Phải sống
giản dị để làm
gương cho dân
chúng; Phải vượt
lên trên mọi
hận thù;
Biết
áp dụng
tinh thần
bất bạo động;
Biết nhẫn nại;
Tôn trọng
ý kiến
dân chúng, và
biết phát triển
sự hòa bình và
hòa hợp.
Lời dạy của
Đức Phật
về các bổn phận
đạo đức
của vua chúa để
sử dụng
công quyền,
bảo đảm
an sinh người
dân, đã giúp cho
vua A Dục
(Ashoka), vào
thế kỷ III trước
Tây lịch, cai
trị đất nước của
ông. Ông
quảng bá
chính sách
bất bạo động
đến các vương
quốc
lân cận,
cam đoan các
thiện ý
của ông, và gửi
sứ giả đi
khắp nơi để
truyền bá
thông điệp
hòa bình và
bất bạo động.
Vị vua này
cổ võ sự
ứng dụng
của các nguyên
tắc
đạo đức
trong
xã hội,
như
chân thật,
từ bi,
bất bạo động,
nhân từ,
không
hoang phí,
không chiếm
đoạt, và không
gây
sát hại
cho mọi loài
vật. Ông khuyến
khích
tự do
tôn giáo
và
bình đẳng
tương kính giữa
mọi
đức tin.
Ông thường
du hành
thuyết giảng
đạo pháp
đến người dân ở
tận thôn quê.
Ông
thiết lập
các
công trình
công cộng
như bệnh xá,
cung cấp
thuốc men, trồng
cây gây rừng,
đào giếng, các
công trình
thủy lợi, và nhà
tạm trú. Ông
cũng
đặc biệt
ngăn cấm việc
đối xử tàn ác
với các loài
thú vật.
Do đó, nhiều
học giả
xem
Đức Phật
là một nhà
cải cách
xã hội vì
Ngài đã lên án
hệ thống
giai cấp
và
công nhận
quyền
bình đẳng
của
con người.
Ngài dạy rằng
xã hội
phải được
điều hành
trên
trí tuệ
và
lòng từ
bi, chứ không
dựa vào
lòng
tham lam
và si muội.
Lòng từ
bi
nếu không
có
trí tuệ
trở thành
một thứ tình cảm
mù quáng,
trái lại
trí tuệ
lẻ loi sẽ không
thể là ánh sáng
mát lành vì sự
kết hợp
cả hai giống như
sự
hòa hợp
giữa con tim và
khối óc. Cho nên
chúng ta
xác nhận
tình thương
vô biên
và
tri giác
vô lượng
bao giờ cũng là
nòng cốt cho
việc chuyển mình
của
xã hội,
tôn giáo
của
Đức Phật,
mà
nguyên nhân
chính là
hiện tượng
bất công
xã hội và
độc quyền
tôn giáo.
Giảm bớt
sự phân hóa giàu
- nghèo
Một
báo cáo
của Oxfam năm
2017
cho biết,
Việt Nam
có 210 người
siêu giàu (tài
sản ròng
trên 30 triệu
đô-la Mỹ), chiếm
12% GDP cả nước,
và con số này sẽ
tăng lên 403 vào
năm 2025.
Báo cáo
này cũng ví von
rằng người giàu
nhất
Việt Nam
có thu nhập một
ngày bằng 10 năm
thu nhập của
người nghèo
nhất, và với
tài sản
này, có thể đưa
toàn bộ
13 triệu người
nghèo thoát
nghèo ngay tức
khắc.
Kết quả
điều tra
mức sống hộ
gia đình
(VHLSS) cho thấy
rằng khoảng cách
về thu nhập giữa
nhóm giàu với
bốn nhóm còn lại
(nghèo, cận
nghèo, trung
bình, cận giàu)
đã tăng nhanh
trong giai đoạn
2004-2014, tạo
ra khoảng cách
ngày càng lớn về
thu nhập.
Chúng ta
hiểu rằng hố
ngăn cách giàu -
nghèo là
vấn nạn
chung của các
nước
tăng trưởng
nhanh. Trong
cuốn sách
Tư bản
trong thế kỷ XXI
- Capital in the
Twenty-First
Century của
Thomas Piketty
gây
tiếng vang
năm 2014, ông
phân vân liệu
rằng động cơ của
việc
tích lũy
tư bản tư
nhân sẽ không
tránh khỏi
việc tập trung
vào tay một
thiểu số
như Marx
hình dung
vào thế kỷ XIX
hay việc cân
bằng các nguồn
lực, sự
cạnh tranh,
và
tiến bộ
công nghệ sẽ đưa
thế giới
đến một
giai đoạn phát
triển,
giảm bớt
bất
bình đẳng
và
hòa hợp
hơn giữa các
giai cấp
như Simon
Kuznets
quan niệm
trong thế kỷ XX?
Làm thế nào để
tránh
tình trạng
“bình quân mỗi
người một con
gà, nhưng một
người có chín,
chín người có
một”. Vì bất
bình đẳng
thu nhập sẽ dẫn
đến các
vấn đề
của
xã hội
như
tỷ lệ
thất nghiệp
tăng,
tỷ lệ
tội phạm
tăng, năng suất
lao động bình
quân giảm…
Vé vào
thế giới
hạnh phúc
trong tay
chúng ta
Chúng ta
không
mong chờ
vào ai đó, dù là
bậc
tu hành
đức cao vọng
trọng hay đấng
giáo chủ
nào phân phát
cho
chúng ta.
Vé
đi vào
thế giới an lạc,
hạnh phúc
nằm trong tay
mỗi người, vì
hạnh phúc
không phải ở bên
ngoài.
Có người đã nói:
“Giáo thuyết của
Đức Phật
không
dựa trên
một ‘triết lý
chính trị’ nào
cả. Giáo thuyết
này không khuyến
khích
con người
đi vào
con đường
hành lạc
vật chất.
Giáo thuyết đó
vạch ra
con đường
đưa đến
giải thoát
tối hậu.
Nói một cách
khác,
mục tiêu
tối hậu
của giáo thuyết
ấy là
đoạn diệt
lòng
tham ái
vốn đã cột chặt
con người
trong vòng
trầm luân,
khổ ải”.
Kinh Pháp cú
(kệ 75) đã
tóm tắt:
“Con đường đưa
đến thủ đắc
vật chất
là một
con đường,
còn
con đường
đưa đến Niết-bàn
là một
con đường
khác”6.
Và đấy chính là
trung đạo
-
con đường
nhân bản.
Trung đạo
là
con đường
để
phục vụ,
để dẫn dắt
con người
hướng thượng.
Nếu có một
xã hội mà
trong đó người
ta không những
ít bị
chướng ngại
mà lại còn được
giúp cho để tiến
lên trong
chính đạo,
thì phải là một
xã hội
xây dựng
trên
căn bản
trung đạo.
Nó cũng là
ước mơ
muôn đời của
nhân loại.
Nhưng rất tiếc,
việc
thực hiện
ở nhiều
quốc gia
phát triển như
Nga, Ý, Pháp,
thậm chí Mỹ vẫn
chỉ là
ước mơ,
dù trong
thực tế
đã có một số
nước Bắc Âu hay
Nhật Bản
đang tiệm cận
“con đường” ấy,
về
phương diện
an sinh
xã hội và
điều hòa kinh
tế.
Cần phải
có tiếng nói
chung giữa
giai cấp
lãnh đạo
với dân chúng
thuộc bất kỳ sắc
tộc,
tôn giáo
nào trong một
mục tiêu
chung:
xã hội
hài hòa cả Thiên
- Địa - Nhân. Đó
là cách tiếp cận
và là
giải pháp
của
Phật giáo
trong
tinh thần
Ngày Vesak
Liên Hiệp
Quốc.
Hãy
đi vào
con đường
đã vạch ra của
Đức Phật
để thấy Ngài
đang Đản sinh
ngay giây phút
này, trong mỗi
chúng ta!
Nguyên Cẩn
1 Gary Gach
- (2009) The
Complete
Idiot’s
Guide to
Buddhism
- Alpha,
Penguin
Group, (USA)
2 Thích
Minh Châu.
(
1995) Những
lời
Đức Phật
dạy về hòa
bình và
giá trị
con người. VNCPHVN
3 Thích
nữ
Trí Hải -
Tìm hiểu
kinh
Kim cương
4 Nguyễn
Đăng Thục -
“Tinh thần
Thiền học
Việt
Nam”. Tập
san Vạn
Hạnh số
23, 1965
5 Tăng
chi bộ kinh
6 Gems of
Buddhist
Wisdom
- Bình Anson
trích dịch