Tìm hiểu về nghiệp

tim hieu

Tìm hiểu về nghiệp

Chánh Tấn Tuệ

Trong nhà Phật, nghiệp có ý nghĩa rất rộng, rất sâu, bao hàm từ thô đến tế.

Rộng, vì nghiệp hiện diện trong từng tư tưởng, tình cảm, hành vi, thân xác, vận mệnh của mỗi chúng sinh (trong đó có con người).

Sâu, vì nghiệp là chỗ khởi đầu của sinh tử.

Thô, vì con người có thể nhận ra nghiệp trong các sinh hoạt bình thường.

Tế, vì chỗ khởi đầu của sinh tử chỉ là bất giác tâm động mà thành niệm (vô minh nghiệp tướng)[1]. Niệm này cực kỳ vi tế, ý thức của người bình thường không thấu được.

Nghiệp là gì?

Theo Tự điển Phật học Huệ Quang, nghiệp có nghĩa là tạo tác[2]. Tạo tác là làm ra, tạo ra, làm nên. Tạo tác diễn ra trong tâm, gọi là ý nghiệp. Tạo tác diễn ra nơi miệng thành lời nói, gọi là khẩu nghiệp. Tạo tác diễn ra nơi thân như tay chân co duổi v.v… gọi là thân nghiệp. Ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp, gọi chung là tam nghiệp. Con người tạo nghiệp thông qua ba hình thức đó.

Nghiệp, có người định nghĩa là hành động. Hành động ở thân, ở miệng và ở ý. Nói hành động ở thân và miệng thì dễ chấp nhận, nhưng với ý nghiệp thì chưa hiển bày được hết nghĩa của nó. Thành định nghĩa này tuy gần với đại chúng nhưng không bằng hai chữ tạo tác. Tạo tác hàm chứa được nghĩa của nghiệp rộng hơn. 

- Do bị A nói xấu sau lưng nên B quyết định trả đủa - quyết định này là ý nghiệp. Sáng nay gặp A, B liền trách móc chửi mắng, đây là khẩu nghiệp. Do A không chịu nhận lỗi, cứ quanh co biện minh khiến B thấy rằng nói là chưa đủ, nên thượng chân hạ tay với A, đây là thân nghiệp.

- Sau một thời gian quen biết, A thấy mình có tình cảm với B. Trải qua nhiều đắn đo suy nghĩ, A quyết định viết thư và tặng hoa để bày tỏ tình cảm. Việc có tình cảm, đắn đo suy nghĩ và quyết định viết thư thuộc ý nghiệp. Hành động viết thư, tặng hoa thuộc thân nghiệp.

- A khởi lên ý nghĩ cần có một việc kinh doanh để tăng thu nhập. Sau khi suy tính, A quyết định mở cửa hàng kinh doanh quần áo, đó là ý nghiệp. Để thực hiện ý định trên, A tìm đến chủ nhà có vị trí thích hợp để thương lượng thuê nhà. Thương lượng thành công, A tiến hành sửa chữa, trang trí, mua quần áo, trưng bày để bán… Các việc làm đó thuộc thân và khẩu nghiệp, giúp thực hiện ý nghiệp muốn kinh doanh của A.

Người không lìa nghiệp

Sáng chủ nhật, A bật ti-vi xem chương trình thể thao. Được một lát, A tắt ti-vi bật máy nghe nhạc. Nghe vài bản A tắt máy, bước ra sân chăm hoa và quay sang nói chuyện với hàng xóm. Xong, A quay vào nhà thay quần áo rồi lấy xe xuống phố. Ngang qua cửa hàng, thấy quảng cáo hàng mới, A gởi xe vào xem… Việc này nối tiếp việc kia trong một ngày được gọi là nghỉ ngơi, cho thấy con người suốt ngày sống với nghiệp, hết nghiệp này đến nghiệp khác. Khi thân mệt mỏi mới chịu dừng nghỉ. Song dù miệng không nói, tay không làm, chân không đi, tâm vẫn chưa hết nghĩ. Các ý niệm thay nhau xuất hiện không ngừng trong đầu. Đây dù không có thân và khẩu nghiệp, ý nghiệp vẫn vận hành. Vận hành ngay cả khi ngủ. Đa phần người đời vẫn mộng thấy làm cái này, cái kia, thấy yêu, thấy ghét, thấy sợ v.v… như đang sống trong đời sống thường nhật. Tóm lại, con người suốt ngày sống trong sự tạo tác. Vì luôn có tạo tác nên gọi là hữu vi. Kinh nói chúng sinh thường sống với pháp hữu vi.

Ý nghiệp là nền tảng, là chủ đạo…

Ý nghiệp là chỗ khởi đầu của nghiệp. Ý nghiệp có thể xuất hiện một mình, không cần đến sự hiện diện của thân nghiệp và khẩu nghiệp, nhưng phải nương vào ý nghiệp thì thân và khẩu nghiệp mới có thể xuất hiện.

Khi nghiệp xuất hiện, ý nghiệp có thể được ý thức như các trường hợp vừa nêu. Song cũng có nhiều trường hợp, nghiệp xuất hiện mà ý nghiệp không được nhận biết dù nó đã hiện diện ở tâm. Trong buổi họp, A đã phát biểu. Khi nói xong, A cảm thấy áy náy, vì nhận ra lời nói của mình đã đụng chạm đến cấp trên, điều mà A muốn né tránh. Rõ ràng khi phát biểu, A đã không ý thức được đầy đủ điều mình đang nói. Nếu ý thức được, A đã không nói. Dù không ý thức được, nhưng đã có một động lực nằm sẵn trong tâm thúc đẩy A nói. Động lực đó là ý nghiệp.

Trong Phân tâm học có một thí nghiệm rất nổi tiếng có tên là “Ám thị có kỳ hạn” (Suggestion a échéance). Thí nghiệm này giúp thấy rõ hơn về sự vận hành của ý nghiệp dù ta không ý thức được sự có mặt của nó. Trong giấc ngủ thôi miên của một người bệnh[3], bác sĩ ra lệnh: “Sau khi được đánh thức nửa giờ, anh phải bò quanh phòng!”. Sau ám thị đó, người bệnh được đánh thức. Khi người bệnh lấy lại được ý thức của mình, anh không nhớ được mệnh lệnh đã nhận khi ngủ, nhưng đến giờ quy định, anh trở nên áy náy như muốn tìm một vật gì. Cuối cùng anh bò quanh phòng, viện cớ là mình đang tìm một đồng xu bị mất. Thí nghiệm cho thấy người bệnh bò quanh phòng (thân nghiệp) nhưng không hề ý thức được mệnh lệnh bắt anh phải bò. Mệnh lệnh ấy giờ đã thành ý nghiệp của anh, chi phối tư tưởng của anh khiến anh nghĩ mình đánh rơi đồng bạc, chi phối hành động của anh khiến anh bò quanh phòng.

Ý nghiệp là cơ sở của mọi tư tưởng, tình cảm, hành vi của con người, nhưng thường chúng ta chỉ ý thức được phần nổi, là phần thô của ý nghiệp, chưa ý thức được phần tế của nghiệp, tức chưa ý thức được những nguyên động lực nơi ý nghiệp. Thế nên “đối tượng mà ta có ít hiểu biết đúng và có nhiều hiểu lầm nhất là chính mình”. Nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng đây là sự thật ít ai nghĩ đến.

Huân tập và thành nghiệp…

Một tư tưởng, một tình cảm, một hành vi được thực hiện lặp tới lặp lui nhiều lần, gọi là huân tập. Muốn thuộc bài, chúng ta cần đọc tới đọc lui bài học nhiều lần để nhớ bài, việc đọc tới đọc lui đó gọi là tập học bài. Ngày nào cũng tọa thiền, gọi là tập tọa thiền. Ngày nào cũng uống rượu, gọi là tập uống rượu.

Chúng ta suốt ngày sống với nghiệp, hết nghiệp này đến nghiệp khác. Trong các nghiệp ấy, nghiệp nào được huân tập nhiều, sẽ dẫn đến hiện tượng thành nghiệp. Nếu đã thành nghiệp thì khi sinh khởi, nó có năng lực bắt thân tâm ta vận hành theo nó. Ta có thể cưỡng lại tác động này của nghiệp, chỉ là nghiệp đã huân càng nhiều thì cưỡng càng khó.

Thí dụ:

- Ăn uống đã huân thành nghiệp nên khi đói mà có đồ ăn, khó mà không ăn.

- Đã uống rượu thành nghiện thì không có rượu, sẽ phát sinh sự thèm muốn. Muốn rồi sẽ tìm rượu. Có rượu rồi, khó mà cưỡng lại nó.

Tạo ra lực nghiệp

Năng lực bắt ta phải nghĩ hay hành động theo nghiệp, gọi là lực nghiệp. Lực này phát sinh khi một thói quen xuất hiện. Tức những gì mà ba nghiệp thân, khẩu, ý đã huân tập thành nghiệp rồi, sẽ tạo ra một lực bắt ta phải theo hướng đó, gọi là lực nghiệp hay nghiệp lực.

Nghiệp nặng và nhẹ      

- Gọi là nghiệp nặng khi lực nghiệp mạnh. Hai yếu tố chính khiến nghiệp có lực mạnh là sự huân tập và tình cảm đi kèm với nghiệp. Nghiệp càng được huân tập nhiều, lực nghiệp càng mạnh. Càng nhiều tình cảm yêu, ghét, tham, sân, khổ, lạc đi kèm, lực nghiệp càng mạnh. Người ghiền rượu một năm, sự lệ thuộc vào rượu ít hơn khi đã ghiền tới mười năm. Người nghe âm nhạc với sự ưa thích nhiều sẽ dính mắc vào âm nhạc, thường tìm đến âm nhạc nhiều hơn so với người nghe âm nhạc với sự ưa thích ít.

- Nghiệp nhẹ là nghiệp mới huân tập, không được huân tập nhiều như nghiệp nặng, lực của nó không mạnh.

Với nghiệp nhẹ, ta có thể dễ dàng thay thế nghiệp này bằng nghiệp khác. Như chơi cờ là thói quen, nhưng do bệnh, thay vì chơi cờ thì có thể dành thời gian đó để tập thể dục, nhằm tăng cường sức khỏe. Hoặc thay vì nghe nhạc, ta có thể đi dạo…

Với nghiệp nặng, ta dễ đánh mất sự tỉnh giác, tâm trở nên mê mờ, thiếu lý trí, khó phân định được thiện ác, ý thức chỉ hướng đến việc tìm cách thực hiện nghiệp. Ta cũng khó thay thế một nghiệp nặng bằng một nghiệp khác. Như người ghiền rượu nặng, khi cơn ghiền xuất hiện, khó mà thay thế việc uống rượu bằng việc làm khác.

Nghiệp với phiền não chướng

Phiền não nói đây chỉ cho những trạng thái không vui, như bất an, bồn chồn, buồn bực v.v…

Vì làm chướng ngại cho việc thoát khỏi nghiệp, chướng ngại cho sự giải thoát, nên gọi là phiền não chướng.  

Khi nghiệp sinh khởi, nếu không thực hiện nghiệp ấy, trong tâm sẽ xuất hiện trạng thái phiền não. Việc “không thực hiện nghiệp ấy” có hai: Hoặc do ta muốn, như do muốn cai rượu nên quyết không uống rượu. Hoặc do không muốn nhưng không đủ điều kiện để thực hiện nghiệp ấy, như thèm rượu nhưng không kiếm ra rượu để uống.

Phiền não có thể nhẹ như thấy không vui, bực bội, bất an…, có thể nặng như bồn chồn, nóng bức nơi tâm, bức bách nơi thân... Nghiệp càng nặng, khổ càng nhiều, vì phiền não là khổ.

Thông thường, ai cũng thích sướng sợ khổ nên thường tìm vui tránh khổ, do vậy con người thường tìm cách nghĩ và sống theo nghiệp đang có hơn là sống trái với nghiệp, như một cách tránh đối mặt với phiền não. Thái độ đó khiến phiền não trở thành sợi dây trói con người với nghiệp. Phiền não càng lớn, sợi dây trói buộc càng bền chắc, khiến con người không còn tự do, tự tại.

Nghiệp - không nghiệp     

Nghiệp vốn không, do huân tập mà hiện ra như có. Dù có xuất hiện nhưng bản chất của nghiệp vốn không, nên ta có thể làm cho nghiệp trở về không, gọi là không nghiệp. Nghiệp do huân tập mà thành, chỉ cần không huân tập nữa, nghiệp lại về không. Như ngày nào cũng hút thuốc, việc lặp đi lặp lại hành vi này làm cho nghiệp ngày càng nặng. Muốn không nghiệp chỉ cần không hút thuốc nữa. Nếu không hút diễn ra trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, nghiệp hút thuốc sẽ dần biến mất.

Về nguyên tắc, việc không nghiệp có vẻ đơn giản, nhưng thực tế là khi cưỡng lại nghiệp, ta phải đối diện với loại phiền não do dừng nghiệp mà ra. Nghiệp càng nặng thì phiền não càng lớn, sự mê mờ càng sâu, nên muốn “không được các nghiệp nặng”, cần phải có ý thức tự giác, sự tỉnh giác và một ý chí kiên định.

Chủng tử nghiệp

- Được lưu giữ trong tạng thức: Bất kỳ một pháp nào, một khi được huân tập sẽ hình thành nên chủng tử của pháp ấy và được lưu giữ trong thức thứ tám của chủ thể tạo tác. Nghiệp, do huân tập mà thành nên cũng được lưu giữ trong thức thứ tám, dưới hình thức chủng tử nghiệp.

- Mang tính cá nhân: Sự huân tập thành chủng tử mang tính cá nhân. Tức chủng tử của người nào phải do chính người đó tạo thành, không do một thế lực bên ngoài tạo giùm, cũng không do người khác (dù thân thuộc) tạo giùm. Nghiệp cũng do chính mỗi cá nhân tự huân tập lấy mới hình thành chủng tử nghiệp, mới có thể “thành nghiệp”. Như cha uống rượu, con không uống rượu thì cha ghiền, con không ghiền. Con tập hút thuốc, cha không hút thuốc thì con ghiền, cha không ghiền. Tất cả các nghiệp khác đều như vậy.

- Ở trạng thái thùy miên: Thông thường chủng tử ở trạng thái thùy miên, tức ngủ ngầm trong thức thứ tám. Lúc này chủng tử không có hình tướng hay tác dụng nên đồng như không có. Khi đủ duyên, chủng tử sẽ sinh khởi, tạo ra các niệm tưởng trong tâm. Các niệm tưởng này xuất hiện từ tế đến thô. Tế là khi các niệm tưởng còn trong thức thứ bảy và thức thứ tám (Phân tâm học gọi là tiềm thức và vô thức). Thô là những ý niệm xuất hiện trong ý thức.

- Đủ duyên mới sinh khởi: Thức thứ tám của mỗi chúng sinh chứa nhiều chủng tử nghiệp khác nhau. Tại một thời điểm nào đó, chỉ những chủng tử đủ duyên mới sinh khởi, thúc đẩy sự hoạt động của tâm, ý, ý thức. Tùy theo lực nghiệp mạnh hay nhẹ mà ý thức của chúng ta hoạt động mạnh hay yếu. Có lúc tâm thức hoạt động hòa hoãn, có lúc hoạt động mạnh hơn, có lúc hoạt động mãnh liệt. Hiểu về nghiệp, sẽ hiểu tại sao tâm thức hoạt động với nhiều mức độ khác nhau.

- Sinh khởi ý nghiệp: Chủng tử nghiệp khi đủ duyên sinh khởi sẽ tạo ra ý nghiệp. Ý nghiệp này cũng có từ tế tới thô. Tế, là khi còn nằm trong vô thức. Thô, là khi nó xuất hiện trong ý thức. Vì ý nghiệp là nghiệp, nên nó xuất hiện cùng với lực nghiệp. Lực này xuất hiện khi ý nghiệp còn trong vô thức, tạo thành động lực vô thức. Với Freud, đây là “năng lực tính dục” (libido). Thật ra, tính dục chỉ là một trong rất nhiều nghiệp được tích chứa trong thức thứ tám (vô thức). Chỉ khi thấu về chủng tử nghiệp, ta mới thấy hết được các động lực tiềm chứa trong vô thức. Động lực này chi phối ý thức, thúc đẩy ý thức vận hành theo nghiệp đang khởi.

Từ ý nghiệp, thân nghiệp và khẩu nghiệp theo đó hiện hành.

Nếu có thể nhận biết nghiệp ngay khi ý nghiệp xuất hiện (dù ở trạng thái thô) thì có thể quyết định được sự tạo tác của thân và khẩu nghiệp.    

Nghiệp và lý Nhân duyên

Nghiệp xuất hiện và vận hành theo lý nhân, duyên, quả. Trong đó chủng tử nghiệp là nhân, các điều kiện làm cho nghiệp sinh khởi và phát triển là duyên. Duyên có thể đến từ bên trong, có thể đến từ bên ngoài.

Duyên đến từ bên trong, là những sinh khởi hiện hành của tâm - luận Đại thừa khởi tín gọi nó là thức tương tục: “Thức này giữ gìn nghiệp thiện ác trong vô lượng đời quá khứ khiến chẳng mất, lại hay thành thục quả báo khổ vui trong đời hiện tại và vị lai không hề sai lệch, hay khiến hiện tại bỗng nhớ lại những việc đã qua, bất giác lo nghĩ vọng tưởng những việc chưa tới”. Nhớ lại việc đã qua hay vọng tưởng những việc chưa tới chính là duyên bên trong giúp sinh khởi các chủng tử nghiệp ẩn sâu trong thức thứ tám. Chủng tử và hiện hành, tác động qua lại làm nhân duyên cho nhau để sinh khởi.

Để dễ nắm bắt câu nói trên, hãy khảo sát trường hợp giả định sau: Đang yên ổn, chợt hình bóng A xuất hiện trong ý thức, khiến những hình ảnh quá khứ sống lại kèm theo đó là tình cảm buồn, thương, tiếc nuối. Nhìn một cách tổng quát, hình ảnh A là duyên làm cho chủng tử nghiệp (mà chủ thể ý thức từng có với A) sinh khởi. Chủng tử ở thức thứ tám sinh khởi, thông qua thức thứ bảy, đến với ý thức làm xuất hiện ở ý thức những ý niệm, là những hình ảnh quá khứ kèm với sự buồn, thương, tiếc nuối. Ở đây, chủng tử là nghiệp quá khứ được lưu giữ trong thức thứ tám. Nó là nhân sinh ra quả (các ý niệm quá khứ). Nói một cách chi tiết, hình ảnh A khi xuất hiện ở ý thức, là duyên làm các chủng tử nghiệp có liên hệ với A sinh khởi. Chủng tử sinh khởi làm hiện hành các ý niệm về quá khứ. Ý niệm quá khứ này lại làm cho các chủng tử sinh khởi. Sự tương tác qua lại giữa chủng tử và hiện hành làm cho các hình ảnh quá khứ nối tiếp nhau xuất hiện trong ý thức, tạo thành dòng thức tương tục. William Jame[4] gọi dây là dòng ý thức (stream of thought). “Độ lâu thuần túy” (durée pure) của Bergson[5] cũng có nhiều điểm tương đồng với dòng ý thức.

Ai cũng có thể nhận ra dòng thức tương tục này. Dễ nhất là khi một mình ở chỗ yên tịnh, không để cảnh vật bên ngoài làm sao lãng, hướng sự chú tâm vào bên trong ta sẽ thấy các ý niệm xuất hiện rồi biến mất, nhường chỗ cho các ý niệm khác. Nếu tập quan sát như thế một cách lâu dài và đúng pháp, ta sẽ thấy đó là một dòng chảy các ý niệm nối tiếp nhau, chính là thức tương tục.

Do tâm khởi luôn đi kèm với một nghiệp, nên khi một ý niệm xuất hiện trong ý thức, nó có khả năng lôi kéo ý thức vận hành theo nó. Việc này làm ta bị xao lãng, không tập trung. Như đang chú tâm làm việc, một ý niệm đột nhiên xuất hiện trong ý thức. Ý niệm này khiến ta xao lãng công việc. Biết mình đang làm việc, ta chú tâm vào lại công việc. Lát sau một ý niệm khác lại xuất hiện làm ta xao lãng v.v... Việc làm chủ các ý niệm này là không dễ, vì nó là ý nghiệp. Ý nghiệp xuất hiện luôn đi kèm với lực nghiệp. Lực này lôi kéo ý thức vận hành theo nó.

Với người tu thiền, lực này cản trở việc thiền định. Vì định là dừng tâm trên một cảnh hay một niệm. Nhưng các ý nghiệp lại xuất hiện theo nhân duyên, nên luôn dời đổi, khiến tâm không định. Muốn tâm được định, phải kiên trì giữ tâm một chỗ, hoặc giữ tâm không chạy theo niệm. Tập lâu mới đạt được định.           

Với người bình thường, để làm công việc có hiệu quả, cần có sự chú tâm. Sự chú tâm này dễ bị mất vì các ý niệm đột khởi trong tâm, các ý niệm này vốn là ý nghiệp. Thành muốn có sự tập trung, cần phải tập quen với việc gạt bỏ các ý niệm này, đặt tâm vào công việc. Nói đơn giản là làm việc gì chỉ biết việc đó, không để cái biết chạy theo cảnh khác, chạy theo các ý niệm. 

Đó là nói về duyên bên trong.  

Duyên đến từ bên ngoài, như A-nan là thị giả của Phật, do thích thân tướng thanh tịnh của Phật mà xuất gia, không có tâm ái thích người nữ. Nhưng khi gặp Ma-đăng-già thì mê muội, là do nhân duyên 500 đời làm vợ chồng với Ma-đăng-già. Chủng tử dâm ái được huân sâu trong thức thứ tám, vẫn ngủ yên cho đến khi gặp duyên là Ma-đăng-già, liền sinh khởi ý nghiệp mê muội và sắp hiện ra thân nghiệp. Nhưng do nghiệp tu hành được huân tập tới hiện đời, được lực hộ trì của chư Phật, A-nan tỉnh giác kịp thời, không để mất giới thể. Ma-đăng-già và lực hộ trì của chư Phật đều là duyên đến từ bên ngoài. Do duyên Ma-đăng-già mà chủng dâm ái hiện hành. Do duyên chư Phật mà chủng tỉnh giác xuất hiện, phá tan nghiệp dâm ái.    

Suốt ngày, con người chạy theo nghiệp này đến nghiệp khác, vì hai duyên trong ngoài luôn có đủ. Khi không có duyên ngoài thì vẫn còn duyên trong, khiến ý nghiệp không ngừng sinh.  

Nhiều nhà Tâm lý học thấy rằng, những phép tắc chi phối các hiện tượng tâm thần rất gần với các phép tắc chi phối các hiện tượng vật chất. Điều này hoàn toàn đúng, vì cả hai đều vận hành theo lý nhân-duyên-quả. Một số trong họ đã muốn xây dựng Tâm lý học thành một môn học chính xác như các môn khoa học về vật chất, nhưng dù cố gắng rất nhiều vẫn không làm được. Vì các môn khoa học vật chất, như vật lý học, được xây dựng chỉ dựa trên nhân và quả. Chỉ cần biết nguyên nhân, sẽ suy được kết quả, duyên không được bàn đến. Như chỉ cần biết hai nhân tố chính là gia tốc trọng trường và vận tốc đầu của viên đạn, sẽ tính được quỹ đạo của viên đạn. Tuy nhiên quỹ đạo đó là kết quả của việc giả định viên đạn bay trong môi trường hư không, không phải đúng như thực tế là viên đạn di chuyển trong môi trường không khí, nên phải chịu lực cản của không khí, chịu tác động của gió… là những duyên tác động lên quỹ đạo thực tế của viên đạn. Để có thể vận dụng công thức lý thuyết vào thực tế một cách có hiệu quả, người ta tạo ra viên đạn với hình dáng ít chịu tác động của không khí nhất. Nhờ đó sai số giữa lý thuyết và thực tế ở mức chấp nhận được. Khoa học luôn là môn học có sai số, nhưng vì là sai số chấp nhận được, nên khoa học được xem là môn học chính xác.

Trong lĩnh vực tâm thần thì không thể vậy. Sự hiện hành của các thức tạo ra mọi hiện tượng tâm lý, nhưng sự hiện hành này bị chi phối bởi nghiệp mà nghiệp vận hành theo lý nhân-duyên-quả. Vì thế các hiện tượng tâm lý chịu tác động của nhiều duyên, các duyên này không thể loại trừ được như trong trường hợp của vật chất, nên việc chỉ vận dụng nhân quả trong lĩnh vực tâm thần sẽ cho sai số khá lớn giữa lý thuyết và thực tế. Muốn có một lý thuyết về tâm lý phù hợp với thực tế, không thể bỏ qua mặt duyên mà chỉ vận dụng đến mặt nhân quả của pháp.

Kinh luận có đề cập đến Tứ duyên. Đó là Nhân duyên, Sở duyên duyên, Đẳng vô gián duyên và Tăng thượng duyên. Các duyên này chi phối tất cả pháp ở thế gian. Việc đề ra nhiều duyên như vậy, cho thấy duyên là thứ không thể bỏ qua trong sự vận hành của vạn pháp. Quán xét pháp với Tứ duyên sẽ giúp cái nhìn đối với vạn pháp chính xác hơn.  

Nghiệp và ngã

Ai cũng có cảm nhận về một cái Ta, chủ thể thân tâm của chính mình. Tùy theo thời điểm hoàn cảnh mà Ta xuất hiện với những hình thức khác nhau. Sáng Ta thức dậy, Ta đánh răng rửa mặt, Ta tập thể thể dục, Ta ăn sáng, Ta đi làm… Chiều tan sở Ta về nhà, Ta dọn dẹp nhà cửa, Ta tắm rửa, Ta nghe nhạc. Ai chê Ta buồn, ai khen Ta vui. Trước chuyện chưa giải quyết được Ta tư duy. Ta thương nhớ. Ta khỏe. Ta ốm yếu v.v… Quan sát kỹ, Ta luôn xuất hiện cùng với nghiệp. Nghiệp thường thay đổi nên Ta cũng thay đổi và mang nhiều hình thức khác nhau. Do nghiệp mà có Ta xuất hiện, nên luận nói “Nghiệp sinh ra người”[6].  

Ý thức có một chủ thể trong các hoạt động, tư tưởng, tình cảm, hành vi của mình và cho rằng đó là Ta, Duy thức học gọi là Ngã chấp phân biệt. Đây là sự chấp ngã mà hầu hết người đời đều có. Nói “ngã chấp” vì cho rằng cái Ta ấy là có. Nói “phân biệt” là do có Ta mà có sự phân biệt giữa Ta với người, Ta khác người khác, Ta khác các sự vật. Sự chấp ngã này thuộc về ý thức.

Do ý thức hoạt động có gián đoạn nên ngã chấp phân biệt cũng có gián đoạn. Như khi ngủ say hay chết giấc, lúc ấy ý thức không hoạt động thì Ta không xuất hiện. Ta gián đoạn như vậy, nhưng vì sao trước và sau sự gián đoạn đó, ý thức về Ta vẫn không thay đổi, vẫn thấy Ta trước và Ta sau là một? Đó là do bên trong, thức thứ bảy vẫn hằng chấp thức thứ tám làm ngã. Ý thức nương đó mà chấp phần hiện hành của thức thứ tám làm Ta. Cho nên, dù ý thức có gián đoạn, cái Ta sau và cái Ta trước vẫn thấy không khác.        

Ta, cái gọi là ngã chấp phân biệt này, không tự tại. Vì do nghiệp sinh ra. Ba nghiệp là nhân. Duyên bên ngoài là nghiệp quả. Bị tác động bởi hai gọng kìm nhân duyên ấy mà Ta, thứ vẫn được cho tưởng là chủ thể của mọi suy nghĩ và hành động, thực ra đang bị sai sử bởi nghiệp và duyên.

Đang nghèo biết mình trúng số đặc biệt, thế là vui, không vui không được. Vì vui là trạng thái phù hợp với sự ưa thích của mình nên ít ai thấy được sự trói buộc của vui, không vui không được. Trường hợp ngược lại, như vừa bị phá sản, thì việc “không muốn buồn cũng vẫn buồn” được thấy rõ hơn. Hoặc như vừa bị tai nạn gãy chân, đau đớn khổ não, một trạng thái không ai muốn có, vẫn hiện diện. Nếu Ta thật là chủ thể thì ta có quyền không buồn, không đau, không khổ. Thực tế không như vậy. Ta vẫn phải chịu những việc ta không muốn. Việc đó cho thấy Ta không tự tại mà lệ thuộc vào nghiệp, vào duyên.  

Theo nhà Phật, nghiệp và ngã là một cặp duyên khởi. Do có nghiệp mà có Ta. Do có Ta mà có nghiệp. Nếu không cho Ta là có thì nghiệp dù hiện diện, bản chất của nó vẫn là không. Lúc này dù có tạo tác mà vẫn không tạo tác, nên gọi là vô vi. Chúng sinh do chấp có ngã nên nghiệp chẳng không, từ đó có trói buộc, khổ đau. Nếu không tiếp tục tạo nghiệp và không chấp ngã nữa thì chứng được vô ngã, là chỗ chứng của các vị A-la-hán. 

Nghiệp và tính cách cá nhân

Theo cách nói thông thường, sự thành nghiệp còn được gọi là thói quen, là tập tính, tính cách do huân tập mà thành.

Khi còn nhỏ, tính cách của mỗi người chưa xuất hiện rõ ràng. Tính cách cá nhân dần rõ nét theo quá trình trưởng thành, kéo theo sự sai biệt giữa tính cách của người này với người khác ngày càng nhiều. Với người trưởng thành, thông thường ta quen nhìn pháp (sự vật, sự việc) theo quan niệm ta đã có về loại pháp đó, suy nghĩ theo cách ta thường suy nghĩ, làm những việc ta quen làm, cảm nhận sự việc này, sự vật kia theo cách ta thường cảm nhận trong quá khứ, ưa thích các sự vật ta thường ưa thích, ghét bỏ các sự vật ta thường ghét bỏ, ứng xử với người này, người kia theo cách ta thường có... Những điều nói trên làm nên tính cách của ta. Nói cách khác, tính cách của mỗi người là một số tập tính (nghiệp) nổi bật của người đó. Vì tính cách cá nhân là nghiệp, do huân tập mà thành, nên không cố định, thay đổi được.

Thí dụ:

Người hung dữ có thể trở thành ít hung dữ, thậm chí là hiền lành. Ngược lại cũng vậy.

Người sống không có tổ chức, không có văn hóa có thể trở thành người sống có tổ chức, có văn hóa. Ngược lại cũng vậy.

Ở đây chúng ta cần tránh hai cái nhìn cực đoan:

1/ Cho rằng, tính cách (bản tính) của con người là không thay đổi được, nên cứ sống theo cách đã và đang sống mà không tìm cách vươn lên để sống tốt hơn.

2/ Cho rằng, việc thay đổi tính cách cá nhân là điều dễ thực hiện, không mất nhiều thời gian. Thông thường tính cách cá nhân là những nghiệp được huân tập nhiều, nên là nghiệp nặng. Muốn thay đổi, cần có sự chỉ dạy (giáo dục), tự giác, ý chí, nghị lực và thời gian để thay đổi một tập tính.

Thông thường tính cách của người trẻ dễ thay đổi hơn người lớn tuổi. Vì người trẻ, tuổi đời còn ít, thời gian huân tập các nghiệp làm thành tính cách của người đó chưa nhiều, nên nghiệp nặng ít, nghiệp nhẹ nhiều, dễ có sự thay đổi. Với người lớn tuổi, các tính cách có nhiều thời gian để huân tập, nên nghiệp nhẹ ít, nghiệp nặng nhiều, khó thay đổi.

Tóm lại, tính cách cá nhân vốn không cố định, nên thay đổi được. Để thay đổi tính cách, ta cần vượt qua nghiệp lực đã hình thành trong quá khứ. Nghiệp càng nặng càng cần nhiều ý chí và thời gian để vượt qua.

Nghiệp, con người và xã hội                   

Con người là con vật được xã hội hóa. Thật ra không hề dễ dàng để trở thành một người chân chánh, vì xã hội đòi hỏi rất nhiều, đưa ra nhiều trói buộc cho mỗi cá nhân, điều mà một con vật trong tự nhiên không có. Trong thực tế, luôn có sự đối kháng giữa phần người (là phần xã hội hóa) và phần con nơi mỗi cá nhân. Để làm người, cần sự tự giác nơi mỗi cá nhân. Mỗi người cần tự hào về những phẩm chất cao quý mà các con vật không có, chỉ có nơi con người. Vì thế cần vun bồi các phẩm chất người mỗi ngày để hoàn thiện chính mình. Cá nhân không thể làm điều này mà không có sự trợ giúp của xã hội. Xã hội, thông qua sự giáo dục từ tôn giáo, nhà nước, chính quyền, văn hóa, pháp luật v.v… để giúp mỗi người phát triển tính người.

Giáo dục đóng vai trò to lớn trong việc giúp mỗi người ý thức được đạo làm người. Giáo dục nhằm khơi dậy sự tự giác và tính tự hào là người nơi mỗi cá nhân, giúp mỗi người phân biệt được thiện, ác, tốt, xấu, đúng, sai... Trên cơ sở đó, mỗi người dần vượt qua phần con, chấp hành các trói buộc của xã hội, để xây dựng một xã hội ổn định bền vững phát triển, theo kịp và vượt lên thời đại. Giáo dục như thế nào để đáp ứng các nhu cầu trên là trọng trách của nhà nước và các tôn giáo.          

 


 

[1] Luận Đại thừa khởi tín - Bồ-tát Mã Minh tạo luận.

[2] Định nghĩa này gần với sự hiểu biết thông thường. Khi đề cập đến các ý nghĩa sâu xa vi tế hơn của nghiệp, bài viết sẽ nói thêm.  

[3] Giấc ngủ thôi miên: Giấc ngủ giả tạo. Trong đó người được thôi miên bị sự ngự trị ý chí của người thôi miên. 

[4]  William Jame (1842 - 1910): Triết gia nổi tiếng người Mỹ, là một trong những người sáng lập ra “Chủ nghĩa thực dụng” Mỹ.

[5]  Henry Bergson (1859 - 1941): Triết gia người Pháp. Được xem là nhà triết học lớn nhất của “Triết học đời sống”.

[6] Tổ Bồ-đề Đạt-ma, Sáu cửa vào động Thiếu Thất, HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle